Athet Pyan Shinthaw Paulu
TU
SĨ PHẬT GIÁO CHẾT,
ĐƯỢC
SỐNG LẠI,
THAY
ĐỔI CUỘC SỐNG
GIỚI
THIỆU
Câu chuyện sau đây là bản dịch của lời chứng
được ghi âm trên băng cassette về một người được thay đổi. Đây không phải là lời
phỏng vấn hoặc tiểu sử nhưng chỉ là lời làm chứng từ chính miệng của anh ta. Có
nhiều người phản ứng cách khác nhau khi nghe câu chuyện nầy. Một số người được
cảm động, một số nghi ngờ, một số người khác chế giễu, trong khi một số khác đầy
dẫy sự giận dữ, họ nói rằng những lời nầy là tiếng gầm thét của kẻ điên hoặc là
sự lừa dối có chi tiết. Một số Cơ đốc nhân đã chống lại câu chuyện nầy chỉ vì những
sự kiện lạ lùng mô tả ở trong đó không thích hợp với hình ảnh yếu ớt của họ về
một Đức Chúa Trời toàn năng. Một số người nói rằng vị tu sĩ trong câu chuyện này
chưa thực sự chết, nhưng bị hôn mê, và những gì anh ta thấy và nghe là phần của
cơn sốt đẩy vào ảo tưởng. Dù bạn nghĩ như thế nào, thì sự kiện đơn giản còn lại
ấy là những biến cố trong câu chuyện này đã biến đổi con người nầy tận gốc rễ,
khiến cho cuộc đời của người nầy thay đổi một góc 180 độ sau những biến cố thuật
lại dưới đây. Anh ta đã can đảm và không sợ hãi gì khi kể lại câu chuyện của đời
mình dù phải trả giá rất cao, kể cả bị tù. Anh ta đã bị bà con, bạn hữu, đồng
nghiệp khinh bỉ và đối diện với sự đe dọa giết chết nếu không đồng ý nhượng bộ
sứ điệp của anh. Động cơ nào khiến người đàn ông nầy liều mình từ bỏ mọi sự? Dù
chúng ta tin hay không, thì câu chuyện của anh cũng đáng cho chúng ta lắng nghe
và xem xét. Ở thế giới hoài nghi Phương Tây, nhiều người đòi hỏi bằng cớ của những
người như thế, bằng cớ có thể đứng vững trước tòa án. Không nghi ngờ gì, liệu chúng
ta có thể bảo đảm chắc chắn rằng tất cả những điều nầy xảy ra không? Không, chúng
ta không thể. Nhưng chúng tôi cảm thấy rằng đáng cho chúng ta nghe câu chuyện nầy
bằng tiếng nói của anh ta để độc giả tự phán đoán.
NHỮNG
NĂM ĐẦU CỦA ĐỜI TÔI
Kính chào quí vị. Tôi tên là Athet Pyan
Shinthaw Paulu. Tôi ở tại đất nước Miến Điện. Tôi hân hạnh được chia sẻ lời chứng
của tôi về những gì xảy ra cho tôi, nhưng trước hết, tôi xin vắn tắt về quảng đời
thơ ấu của tôi.
Tôi sinh năm 1958 ở làng Bogale, thuộc Bình
Nguyên Irrawaddy của miền nam Miến Điện (trước kia gọi là Burma). Cha mẹ tôi là
người rất sùng kính Phật giáo giống như hầu hết những người ở Miến Điện, đặt tên
tôi là Thitpin (có nghĩa là “cây”). Cuộc sống tôi rất đơn giản tại nơi tôi lớn
lên. Đến khi được 13 tuổi, tôi nghỉ học, và bắt đầu làm việc trên một thuyền đánh
cá. Chúng tôi bắt được nhiều cá và đôi khi có tôm ở nhiều sông ngòi và suối ở vùng
Irrawaddy. Khi được 16 tuổi, tôi là trưởng của chiếc thuyền đó. Vào lúc nầy, tôi
sống ở vùng thượng lưu Mainmahlagyon Island (Mainmahlagyon có nghĩa là “Đảo phụ
nữ xinh đẹp”), chỉ ở phía bắc của Bogale, nơi tôi được sinh ra. Vùng nầy khoảng
100 dặm về phía tây nam của Yangon (Rangoon) thủ đô của Miến Điện.
Một ngày nọ, khi tôi 17 tuổi, chúng tôi bắt
được rất nhiều cá trong lưới. Vì cớ nhiều cá nên một con cá sấu khổng lồ tấn công
chúng tôi. Nó bơi theo thuyền của chúng tôi và cố gắng tấn công. Chúng tôi rất
hoảng kinh, vì vậy chúng tôi chèo thuyền nhanh về hướng bờ sông. Con cá sấu
theo sau chúng tôi và dùng đuôi của nó đập nát thuyền. Mặc dầu không ai bị chết
trong cảnh ngộ nầy, nhưng sự tấn công đã ảnh hưởng rất lớn trên đời sống tôi. Tôi
không còn muốn đi bắt cá nữa. Chiếc thuyền nhỏ của chúng tôi bị chìm vì cá sấu
tấn công. Tối đó chúng tôi về làng nhờ chiếc thuyền khác.
Không lâu sau đó, người chủ của cha tôi
chuyển ông ta đến thành phố Yangon (Rangoon). Đến 18 tuổi, tôi được gởi vào một
tu viện Phật giáo để làm tu sĩ tập sự. Hầu hết cha mẹ ở Miến Điện đều cố gắng gởi
con trai mình vào một tu viện Phật giáo, ít ra một thời gian, vì họ xem đó là một
vinh dự lớn khi có con trai phục vụ theo cách ấy. Chúng tôi đã giữ phong tục này
hàng nhiều trăn năm nay.
MÔN
ĐỆ NHIỆT THÀNH CỦA PHẬT GIÁO
Vào năm 1977, khi tôi được 19 tuổi 3 tháng,
tôi trở thành một tu sĩ thực thụ. Vị sư trưởng tu viện của tôi cho tôi một pháp
danh, đây là phong tục của nước tôi. Bây giờ tôi được gọi là U Nata Pannita
Ashinthuriya. Khi trở thành tu sĩ, chúng tôi không còn dùng tên do cha mẹ đặt
cho khi mới sanh. Tên của tu iện nơi tôi sống gọi là Mandalay Kyaikasan Kyaing.
Tên của vị sư trưởng là U Zadila Kyar Ni Kan Sayadaw (U Zadila là tước hiệu của
ông – như Hòa thượng). Ông từng là tu sĩ phật giáo nổi tiếng nhất ở tại Miến Điện
lúc bấy giờ. Mọi người đều biết ông là ai. Ông được mọi người kính trọng và tôn
ông là giáo sư vĩ đại. Tôi nói ông “từng” là vì năm 1983, thình lình ông qua đời
vì bị tai nạn xe. Sự qua đời của ông làm mọi người sững sốt. Lúc ấy tôi đã làm
tu sĩ được 6 năm, tôi cố sức để trở thành tu sĩ giỏi nhất và tuân theo mọi giới
luật của Phật giáo. Đến một giai đoạn tôi đi vào nghĩa trang gần chỗ tôi sống và
suy tư liên tục. Vài tu sĩ thật sự muốn biết những chân lý về đức Phật cũng làm
giống như tôi làm. Một số người đi sâu vào rừng để họ sống một cuộc đời từ bỏ
chính mình và nghèo khổ. Tôi tìm cách để từ bỏ những tư tưởng ích kỷ, và dục vọng,
để trốn thoát khỏi bệnh tật và đau khổ và muốn phá vỡ vòng luân hồi của trần
gian nầy. Tôi cố đạt cho được sự bình an trong tâm hồn và tự ý thức, thậm chí
khi một con muỗi sà vào cắn, tôi cứ để nó hút máu mà không đập nó!
Trãi qua nhiều năm tôi phấn đấu để trở thành
tu sĩ tốt nhất và không làm hại bất kỳ sinh vật nào. Tôi học tập những sự dạy dỗ
thánh của Phật giáo như tổ tiên đã làm trước tôi. Cuộc đời làm tu sĩ của tôi cứ
tiến lên cho đến một ngày tôi bị đau rất nặng. Tôi ở Mandalay vào thời điểm đó
và được đưa đến bệnh viện để chữa trị. Bác sĩ đã làm một số xét nghiệm trên tôi
và cho tôi biết là tôi bị sốt vàng và sốt rét cùng một lúc! Sau một tháng ở bệnh
viện, sức khỏe của tôi tệ hại hơn. Các bác sĩ bảo rằng không còn cơ hội cho tôi
được phục hồi và họ cho tôi xuất viện để về nhà chờ chết.
Đây là phần mô tả vắn tắt về quá khứ của tôi.
Bây giờ tôi muốn kể cho quí vị nghe những điều đáng lưu ý xảy ra cho tôi sau thời
điểm đó….
MỘT
KHẢI TƯỢNG LÀM THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI TÔI VĨNH VIỄN
Sau khi xuất viện, tôi trở
lại tu viện, tại đấy các tu sĩ khác chăm sóc cho tôi. Tôi càng ngày càng yếu hơn
và bị hôn mê. Về sau tôi được người ta cho biết rằng tôi đã chết ba ngày. Thân
thể tôi bị thối và tim tôi đã ngừng đập. Người ta chuẩn bị liệm và đưa qua nghi
lễ tẩy uế truyền thống của Phật giáo. Dù thân thể tôi bị hủy hoại, nhưn tôi nhớ
rằng tâm trí và tâm linh của tôi lại rất nhạy bén. Tôi đang ở trong một trận bão
rất lớn. Cơn gió rất mạnh san bằng toàn thể cảnh vật cho đến khi không còn một
cây hoặc bất kỳ thứ gì còn lại, ngoài một khoảnh đất trống trơn. Tôi đi nhanh
qua bình nguyên nầy một lúc. Chẳng còn ai cả, chỉ một mình tôi đi. Sau một lúc
tôi băng qua một con sông. Bên kia bờ sông, tôi thấy một hồ lửa rất khủng khiếp,
khủng khiếp lắm. trong Phật giáo, chúng tôi không có ý niệm về một nơi giống như
vậy. Ban đầu tôi rối trí và không biết đó là địa ngục cho đến khi tôi nhìn thấy
Yama, vua của địa ngục (Yama là tên đặt cho vua của địa ngục trong nhiều nền văn
hóa Á châu). Mặt của vua này giống như mặt sư tử, nhưng chân của nó giống như
chân của rắn. Nó có một số sừng. mặt nó dữ tợn và tôi rất sợ hãi. Run rẩy, tôi
hỏi tên của nó. Nó trả lời, “Ta là vua của địa ngục, Kẻ hủy diệt”
HỒ
LỬA RẤT KHỦNG KHIẾP
Vua của địa ngục bảo tôi nhìn vào hồ lửa. Tôi
nhìn và thấy chiếc áo choàng màu của tu sĩ Phật giáo Miến Điện. Tôi nhìn kỹ hơn
và thấy đầu trọc của một người đàn ông. Khi tôi nhìn vào mặt ông ta, tôi nhận
ra đó là U Zadila Kyar Ni Kan Sayadaw (Vị tu sĩ nổi tiếng đã chết trong tai nạn
xe hơi năm 1983). Tôi hỏi vua địa ngục vì sao người lãnh đạo trước kia của tôi
lại bị giam trong hồ tra tấn nầy. Tôi nói, “Tại sao ông ta ở trong hồ lửa nầy? Ông
ta là giáo sư lỗi lạc. Thậm chí ông ta đã có một cuộn băng gọi là “Bạn là con người
hay một con chó?” giúp cho hàng ngàn người hiểu rằng, là người, họ có giá trị rất
lớn so với súc vật. Vua của địa ngục trả lời, “Đúng, ông ta là một giáo sư lỗi
lạc, nhưng ông ta không tin Jêsus Christ. Đó là lý do ông ta ở trong địa ngục”.
Rồi vua địa ngục bảo tôi nhìn vào một người
khác ở trong hồ lửa. Tôi nhìn thấy một người tóc rất dài vắt ngang qua bên trái
đầu của ông ta. Ông ta cũng mặc áo choàng dài. Tôi hỏi vua địa ngục, “Ông nầy là
ai?” Nó trả lời, “Đây là người mà ngươi thờ kính: Gautama (Phật Thích Ca). Tôi
kinh hoàng nhìn thấy Gautama ở địa ngục. Tôi cãi lại, “Gautama là người rất đạo
đức, rất tốt, tại sao ông ta lại chịu khốn khổ ở hồ lửa?” Vua địa ngục trả lời,
“Cho dù ông ta đạo đức đến đâu, nếu ông ta không tin nơi Đức Chúa Trời đời đời,
thì ông ta vẫn ở nơi nầy”.
Sau đó tôi thấy một người khác, giống như mặc
bộ đồ quân phục. Ông ta có một vết thương lớn ở ngực. Tôi hỏi, “Ông nầy là ai?”
Vua địa ngục bảo, “Đây là Aung San, lãnh tụ
cách mạng của Miến Điện. Aung San ở đây vì ông ta ngược đãi và giết nhiều Cơ đốc
nhân, nhưng chính là vì ông ta đã không tin nơi Jêsus Christ”. Ở Miến Điện, người
ta thường có câu tục ngữ, “Người lính chẳng bao giờ chết, họ cứ sống mãi”. Vua địa
ngục nói với tôi rằng những quân đoàn của địa ngục đã có câu tục ngữ, “Những người
lính chẳng bao giờ chết, nhưng họ đi xuống địa ngục đến đời đời”.
Tôi nhìn xem thấy một người khác ở trong hồ
lửa. Ông ta rất to lớn và mặc đồ chiến. Ông ta cũng cầm một thanh gươm và một cái
khiên. Người nầy có một vết thương ở trên trán. Người nầy cao lớn hơn bất kỳ người
bình thường nào mà tôi từng thấy. Chiều cao của ông ta bằng sáu lần chiều dài từ
cùi chỏ của người nam đo ra chót ngón tay khi duỗi thẳng ra cộng với một gang
tay. Vua địa ngục nói, “Người nầy tên là Gô-li-át. Hắn ta ở địa ngục vì hắn phỉ
báng Đức Chúa Trời đời đời và tôi tớ Ngài là Đa-vít”. Tôi bối rối vì tôi không
biết Gô-li-át và Đa-vít là ai cả. Vua địa ngục nói, “Gô-li-át được ghi lại
trong Kinh thánh Cơ-đốc. Bây giờ ngươi không biết, nhưng khi ngươi trở thành Cơ
đốc nhân, ngươi sẽ biết hắn là ai”.
Sau đó tôi được đưa đến một nơi tôi thấy cả
người giàu và nghèo lo chuẩn bị bữa ăn tối. Tôi hỏi, “Ai nấu thức ăn cho những người
nầy?” Vua địa ngục trả lời, “Người nghèo thì tự họ nấu ăn, còn người giàu thì
nhờ người khác nấu cho họ”. Khi thức ăn được chuẩn bị xong, người giàu ngồi xuống
ăn. Khi họ bắt đầu ăn thì khói mù mịt bay lên. Người giàu ăn lấy ăn để để làm dịu
lương tâm của họ. Họ phải thở khó khăn lắm vì khói. Họ phải ăn nhanh vì họ sợ mất
tiền. Tiền bạc là thần của họ.
Một vua khác của địa ngục đến gần tôi. Tôi
cũng thấy một con vật có công tác cho than vào lửa bên dưới hồ lửa để làm cho nó
nóng thêm. Con vật nầy hỏi tôi, “Mầy cũng muốn đi vào hồ lửa nầy phải không?” Tôi
trả lời, “Không, tôi đến đây để quan sát thôi”. Vẻ mặt của con vật khều lửa nầy
rất dữ tợn. Nó có mười cái sừng trên đầu, một cây giáo trên tay và bảy lưỡi dao
bén nhọn từ đầu cây giáo. Con vật này nói với tôi, “Mầy nói đúng. Mầy đến đây
chỉ để quan sát thôi. Ta không tìm thấy tên mầy ở đây”.
Nó nói, “Bây giờ ngươi trở về nơi trước khi
ngươi đến đây”. Nó chỉ cho tôi về hướng đồng bằng hoang vu mà tôi đã đi qua trước
khi tôi đến hồ lửa nầy”.
CON
ĐƯỜNG QUYẾT ĐỊNH
Tôi đi bộ rất xa, cho đến khi chân tôi chảy
máu. Tôi bị nóng và đau đớn dữ dội. Cuối cùng khi tôi đi bộ khoảng ba giờ, tôi
đến một con đường rộng. Tôi đi trên đường rộng nầy một lúc cho đến một ngã ba.
Một nhánh đi về phía trái, rất rộng. Một nhánh nhỏ hơn đi về phía bên phải. Ở
chỗ ngã ba có một bảng hiệu nói rằng con đường bên trái dành cho những người không
tin nơi Chúa Jêsus Christ. Con đường bên phải dành cho những người tin nơi Chúa
Jêsus. Tôi muốn biết con đường rộng dẫn đến đâu, nên tôi bắt đầu đi. Có hai người
đàn ông đi trước tôi 300 thước. Tôi cố gắng đi nhanh để bắt kịp họ, nhưng dù tôi
rán sức đến đâu cũng không theo kịp, do đó tôi quay lại ngã ba. Tôi tiếp tục nhìn
hai người đàn ông đó khi họ đi xa khỏi tôi. Lúc họ đến cuối con đường thì thình
lình họ rơi xuống. Hai người đàn ông nầy hét lên khủng khiếp! Tôi cũng hét lên
khi thấy những gì xảy ra cho họ! Tôi biết rằng con đường rộng chấm dứt trong sự
nguy hiểm kinh khủng cho ai đi trên đó.
NHÌN
LÊN THIÊN ĐÀNG
Tôi bước đi trên con đường của những người
tin theo Chúa Jêsus. Sau khi đi khoảng một giờ thì mặt đường đổi thành vàng ròng.
Nó trong suốt đến nỗi khi tôi nhìn xuống thì thấy mặt tôi rõ ràng. Sau đó tôi
thấy một người đàn ông đứng trước mặt tôi. Ông ta mặc chiếc áo choàng trắng. Tôi
cũng nghe người ta hát rất hay. Ồ, quá tuyệt vời và tinh khiết! Rất có ý nghĩa
và hay hơn rất nhiều so với những buổi thờ phượng trong những nhà thờ ngày nay
trên đất nầy. Người đàn ông mặc áo trắng bảo tôi cùng đi với ông. Tôi hỏi ông tên
gì, nhưng ông ta không trả lời. Sau khi tôi hỏi tên ông đến sáu lần, thì ông ta
trả lời, “Ta là người giữ chìa khóa của thiên đàng. Thiên đàng là nơi rất đẹp,
rất tuyệt vời. Bây giờ ngươi không thể vào đây, nhưng nếu ngươi đi theo Jêsus
Christ thì ngươi có thể vào sau khi cuộc sống trên đất của ngươi chấm dứt”. Tên
của người đàn ông ấy là Phi-e-rơ.
Phi-e-rơ bảo tôi ngồi xuống và ông ta chỉ
cho tôi thấy một chỗ ở phía bắc. Ông nói, “Nhìn về hướng bắc và nhìn thấy Đức
Chúa Trời tạo dựng một người đàn ông. Đức Chúa Trời phán với một thiên sứ, “Chúng
ta hãy dựng nên một người đàn ông”. Thiên sứ năn nỉ với Đức Chúa Trời và nói,
“Xin Ngài đừng dựng nên người đàn ông. Người ấy sẽ làm điều sai trái và làm Ngài
buồn lòng”. (Nghĩa đen theo tiếng Miến Điện là người ấy sẽ làm Ngài mất mặt).
Nhưng dù sao Đức Chúa Trời vẫn tạo dựng một người đàn ông. Ngài đặt tên người ấy
là “A-đam” (Ghi chú: Những người Phật giáo không tin nơi sự tạo dựng của thế giới
hay của con người, vì vậy kinh nghiệm đó gây tác động có ý nghĩa trên tu sĩ nầy).
SAI
TRỞ VỀ QUẢ ĐẤT VỚI TÊN MỚI
Sau đó Phi-e-rơ nói, “Bây giờ hãy đứng dậy
và trở lại chỗ trước khi ngươi đến đây. Hãy nói với những người thờ phượng Phật
Thích Ca và những người thờ lạy hình tượng. Nói với họ rằng họ phải đến địa ngục
nếu họ không thay đổi. Những người xây dựng chùa và thần tượng cũng sẽ đi địa
ngục. Những người cúng tiền cho các tu sĩ để lấy công quả cũng sẽ đi xuống địa
ngục. Tất cả những người cầu nguyện với các tu sĩ và gọi họ bằng “Pra” (tước hiệu
tôn kính đối với tu sĩ) sẽ xuống địa ngục. Tất cả những người cầu kinh và “ban
sự sống” cho hình tượng sẽ xuống địa ngục. Tất cả những người không tin Jêsus
Christ sẽ xuống địa ngục”. Phi-e-rơ bảo tôi quay về trái đất và làm chứng về những
gì tôi đã thấy. Ông cũng nói, “Ngươi phải nói bằng tên mới của ngươi. Từ bây giờ
trở đi, ngươi sẽ được gọi là Athet Pyan Shinthaw Paulu (Phao-lô trở lại cuộc sống).
Tôi không muốn quay lại quả đất. Tôi muốn đi
thiên đàng. Các thiên sứ mở ra một cuốn sách. Trước hết họ tìm tên hồi nhỏ của
tôi (Thitpin) trong sách, nhưng họ không thể tìm được. Rồi họ tìm tên mà tu viện
đặt cho tôi khi làm tu sĩ Phật giáo (U Nata Pannita Ashinthuriya), nhưng họ cũng
không thấy. Rồi Phi-e-rơ bảo, “Tên của nhưng chưa được viết vào đây, ngươi phải
trở về trần gian và làm chứng về Chúa Jêsus cho những người theo Phật giáo”.
Tôi trở lại con đường bằng vàng. Một lần nữa
tôi được nghe hát rất hay, loại nhạc mà tôi chưa được nghe trước đây. Phi-e-rơ
cùng đi với tôi cho đến giờ tôi phải quay về quả đất. Ông ấy chỉ cho tôi một cái
thang từ trời xuống bầu trời. Cái thang nầy không chạm đến quả đất, nhưng dừng
lại ở giữa chừng bầu khí quyển. Trên cái thang nầy tôi thấy rất nhiều thiên sứ,
một số đi lên trời, một số đi xuống. Họ rất bận rộn. Tôi hỏi Phi-e-rơ, “Họ là
ai?” Phi-e-rơ trả lời, “Họ là những sứ giả của Đức Chúa Trời. Họ đang trình lên
thiên đàng tên của những người đã tin nơi Jêsus Christ và tên của những người
không tin Jêsus Christ. Sau đó Phi-e-rơ bảo tôi đến lúc tôi phải trở về.
CON
MA! CON MA!
Điều kế tiếp mà tôi nhận ra là tiếng khóc.
Tôi nghe mẹ tôi khóc lớn, “Con trai ơi, con ơi, sao con bỏ cha mẹ lại đây?” Tôi
cũng nghe nhiều người khóc. Tôi nhận thấy mình đang nằm trong một chiếc quan tài.
Tôi bắt đầu cử động. Cha mẹ tôi bắt đầu la lớn, “Nó sống rồi! Nó sống rồi!” Những
người khác đứng xa hơn không tin cha mẹ tôi. Sau đó, tôi chống tay trên thành
quan tài và ngồi thẳng dậy. Nhiều người sững sốt, kinh khiếp. Họ la lên, “Con
ma! Con ma!” và chạy bán sống bán chết.
Những người còn lại chết điếng và run rẩy.
Tôi nhận ra mình đang ngồi trên đống nước nhờn và thối, là chất nước trong thân
thể chảy ra, chắc được ba tách rưỡi nước nhờn. Đó là loại nước từ bao tử và những
bộ phận bên trong của tôi chảy ra khi tôi nằm trong quan tài. Đây là lý do người
ta biết rằng tôi thực sự chết rồi. Bên trong quan tài có một loại giấy ni-lông
dán chặt vào lớp gỗ. Lớp ni-lông nầy giữ cho nước thối của tử thi không chảy
ra, vì rất nhiều người chết chảy ra nhiều nước giống như vậy.
Về sau tôi biết rằng chỉ vài phút sau là người
ta đem xác tôi đi thiêu. Tại Miến Điện, người chết được đặt trong quan tài, họ đóng
nắp hòm lại, rồi thiêu cả quan tài. Cha mẹ tôi được phép nhìn mặt tôi lần cuối
trước khi đóng nắp quan tài, đó là lúc tôi được sống lại. Nếu không sống lại,
thì sau đó vài phút, người ta sẽ đóng nắp quan tài và thi thể tôi sẽ bị thiêu.
Lập tức tôi bắt đầu giải thích những gì tôi
đã thấy và nghe. Người ta rất kinh ngạc. Tôi đã nói với họ về những người tôi đã
thấy trong hồ lửa, và bảo họ rằng chỉ có Cơ đốc nhân mới biết chân lý, rằng tổ
phụ của họ và của chúng tôi đã bị lừa dối hàng ngàn năm nay. Tôi nói với họ rằng
mọi điều chúng ta tin đều là giả dối cả. Người ta rất kinh ngạc vì họ biết tôi
thuộc về loại tu sĩ nào và tôi đã nhiệt thành với sự dạy dỗ của Phật Thích Ca
như thế nào.
Ở Miến Điện, khi một người chết, tên và tuổi
được viết bên cạnh quan tài. Khi một tu sĩ chết, thì tên của thầy tu, tuổi và số
năm phục vụ làm tu sĩ được viết ben cạnh quan tài. Tôi đã được người ta ghi rằng
tôi chết, nhưng bây giờ quí vị có thể nhìn thấy tôi đang sống!
LỜI
KẾT
Vì
“Phao-lô Trở Lại Cuộc Sống” kinh nghiệm câu chuyện nói trên, nên anh cứ tiếp tục
làm chứng về Chúa Jêsus Christ. Các mục sư Miến Điện nói với chúng tôi rằng anh
đã dẫn đưa hàng trăm tu sĩ Phật giáo đến với Chúa Jêsus. Lời chứng của anh rõ ràng
là không nhượng bộ. Vì thế, sứ điệp của anh đã làm xúc phạm nhiều người, là những
người không chấp nhận Jêsus Christ là CON ĐƯỜNG DUY NHẤT đến thiên đàng. Dù bị
chống đối dữ tợn, nhưng những kinh nghiệm của anh quá thật đối với anh, nên anh
không hề lay chuyển. Sau nhiều năm là tu sĩ Phật giáo, một người nghiêm túc tuân
theo sự dạy dỗ của Phật Thích Ca, bây giờ anh lập tức công bố phúc âm của Đức
Chúa Trời sau khi anh được sống lại và khuyên những tu sĩ khác từ bỏ tất cả những
hình tượng giả dối và hết lòng theo Đức Chúa Jêsus Christ. Trước thời gian anh
bị bệnh và chết, không có biểu hiện nào cho thấy anh biết gì về Cơ-đốc giáo. Mọi
việc anh học trong ba ngày nằm trong quan tài đã rất mới đối với anh.
Trong nổ lực đưa sứ điệp của anh đến càng
nhiều càng tốt, La-xa-rơ hiện đại nầy bắt đầu phân phát băng video và băng cassette
về câu chuyện của anh. Cảnh sát và nhà cầm quyền Phật giáo tại Miến Điện đã làm
hết sức mình để thu lại những băng cassette nầy và tiêu hủy. Lời chứng mà quí vị
đọc được ở đây đã được dịch từ một trong những cuộn băng đó. Chúng tôi được biết
rằng hiện nay nếu công dân Miến Điện nào có những băng này thì rất nguy hiểm
cho họ.
Lời chứng không sợ hãi của anh đã đưa anh vào
tù ít nhất một lần, khi nhà cầm quyền không thể làm cho anh câm miệng. Khi anh được
thả ra, anh tiếp tục làm chứng về những điều anh đã thấy và nghe. Hiện nay anh ở
đâu, chúng tôi không được biết. Một nguồn thông tin của Miến Điện cho biết anh
ta có thể bị tù hay bị giết rồi, trong khi một nguồn tin khác lại nói, anh đã được
trả tự do và tiếp tục công việc anh được giao phó.
0 nhận xét:
Cảm ơn bạn đã nhận xét. Nguyện Chúa ban phước cho bạn.