Tro Thanh Nguon Phuoc
  • Featured

    Khoa Học và Niềm Tin? Bạn đang thắc mắc???

  • Featured

    Dưỡng Linh cho Tâm Linh bạn.

  • Articles

    Thư Viện

  • Articles

    Tìm Hiểu Niềm Tin

  • Trở Thành Nguồn Phước. Lời Kinh Thánh: Vả, Đức Giê-hô-va có phán cùng Áp-ram rằng: Ngươi hãy ra khỏi quê hương, vòng bà con và nhà cha ngươi, mà đi đến xứ ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước. (Sáng thế ký 12:1-3)
    Hiển thị các bài đăng có nhãn Lời Làm Chứng. Hiển thị tất cả bài đăng
    Hiển thị các bài đăng có nhãn Lời Làm Chứng. Hiển thị tất cả bài đăng

    Thứ Tư, 6 tháng 11, 2019



    Trong hình ảnh có thể có: 2 người, bao gồm Anne Thuỷ, mọi người đang cười, mọi người đang đứng, cây, trẻ em, thực vật và ngoài trời

    Trong cảnh chiều tà, mái nhà loang lổ gợi nét hoang phế như dấu tích của thời gian còn đọng lại, những sợi tơ vương của nhện như cộng hưởng thêm vào, làm cho ngôi nhà càng u mê tĩnh vắng, những tán lá dừa ngoài vườn như là nhân chứng cho những tiếng thở dài não nuột…

    Chiều từng chiều trôi qua trong mỏi mòn chờ đợi, trong cô quạnh, một chút hy vọng vẫn là cái gì đó rất xa xỉ với nó …

    Nó ngồi đây, lòng tê tái nỗi sợ về cuộc sống hẩm hiu, nỗi sợ của phận người ngắn ngủi lại lắm nhọc nhằn, cái tủi thân của mất mát đắng cay đã đè bẹp tuổi xuân đang phơi phới…

    Tai nạn thình lình xảy đến với nó vào độ rày năm ngoái  khi nó từ miền Trung vào Đà lạt thăm em, em nó giúp đổ xăng cho ông chủ để lấy tiền để học lên Trung học, nó loay hoay phụ với bà giúp việc để dọn dẹp lại cửa hàng, bà giúp việc đốt hương cho thần tài ngày rằm làm lửa bén hơi từ hầm xăng bùng lên khiến thân thể nó và bà như hai ngọn đuốc sống, giây phút kinh hoàng mà nó chỉ được nhìn thấy trong phim hành động của Mỹ, lấy hết sức bình sinh nó kêu cứu và nhảy qua bờ rào hai mét vật xuống đất rồi ngất lịm đi…

    Ba ngày sau đó nó tỉnh lại trong bệnh viện Chợ Rẫy, toàn thân trắng toát bông băng, tóc trên đầu đã bị cạo sạch, chỉ có mảnh vải trắng hờ hững vắt ngang qua thân nó, bấm ngón tay mấy lần nó vẫn nghĩ là mình đang nằm mơ … cái chất thuốc mê vẫn còn đánh lừa nó cho đến khi có người nói loáng thoáng: “Như vậy vẫn còn may, bà kia đã “đi” rồi”

    Những ngày sau đó với nó là chuỗi ngày đau đớn đến tận xương tủy: sốt cao liên tục, từng mảnh da rệu rã đen sì lần lượt rớt ra khỏi cơ thể, thấy nó kêu la trong đau đớn có một cô lại gần hỏi nó: Con tin có Chúa không? Nó trả lời nhát gừng “không” cô kia thỏ thẻ “để Cô cầu nguyện cho con bớt đau nghe?” nó chẳng buồn đáp lại, cô kia cầm tay nó cúi đầu cầu nguyện, tiếng cầu nguyện tha thiết của cô kéo nó về với dĩ vãng…

     Tuổi thơ nó cũng từng có thời đi nhóm với lớp thiếu nhi ở một điểm nhóm gần nhà, bạn Thương giới thiệu và dắt đến: kể cũng vui, được múa hát, nghe kể chuyện và sinh hoạt, tính nó vốn ham vui mà, nhưng dần hồi nó không còn đến đó với lòng nhiệt thành nữa, anh bạn cùng xóm của nó không muốn nó đi, thế rồi thi thoảng nó mới đến mặc cho Thương năn nỉ hết lời, nó không muốn làm anh chàng kia buồn, chỉ thế thôi mà cái Thương không hiểu… Rồi nó thi rớt tốt nghiệp cấp hai (đầu óc suốt ngày cứ nghĩ tình cảm vẩn vơ thi không rớt mới lạ) và đó là cái cớ nó rời xa Chúa: nếu Chúa yêu nó tại sao nó lại thi rớt?

    Có cái gì nóng hổi rơi xuống tay kéo nó về với thực tại, hình như cô kia khóc thì phải, cô khóc thì giúp gì được cho nó? Cái nó cần là xuống khỏi chiếc giường chết tiệt này mà nó biết cô kia không làm được, lòng nó chẳng mảy may cảm động hay nói lời cảm ơn như một việc nên làm…

    …Sau một tháng, nó không chết mà trở về trong sự ngạc nhiên của gia đình và làng xóm với vết bỏngsáu mươi lăm phần trăm cơ thể, khi mọi người đã nghĩ đến việc lo “hậu sự” cho nó, thế mới biết, sống cũng khó mà chết cũng không dễ chút nào, số Trời chưa kêu, bà ngoại nó bảo thế.

    Bà con, bạn bè đến thăm nhiều lắm, nỗi cơ khổ của nó dường như chạm vào lòng trắc ẩn của con người, xen lẫn tiếng cảm thông, an ủi và khích lệ nó nghe có tiếng thở dài man mác khi người ta nhìn vào thân thể của nó… Cô giáo cũ dạy văn cho nó ngày xưa cũng đến, cô mang cho nó cả cá đĩa tụng kinh phật, bảo nó ăn chay và nghe tụng cho khuây khỏa, nó làm theo, chớ ngồi không thì biết làm gì? Hai chân queo quắt không đi lại được, xem ti vi hoài thấy cũng chán.

    Mái tóc Ba nó như có thêm sợi bạc từ ngày thấy nó về với thân hình tàn tạ,thi thoảng ông ngước lên nhìn tấm hình chụp chung với nó vào dịp tết năm ngoái rồi lặng lẽ quay đi, ba uống rượu nhiều hơn, lòng nó càng như đắng lại khi mỗi lần bắt gặp ánh mắt trĩu nặng của mẹ, cơ hồ như cả nỗi khổ đau của thế gian này đọng lại trong đó…

    Ngày như dài hơn trong nỗi chán chường vô vị, con đường dẫn vào lối nhà nó như càng ghập ghềnh trong sự mỏi mòn, những hồn nhiên của tuổi thiếu nữ vụt tắt lặng đi sau tai nạn hiểm nghèo, trong cảnh khốn cùng nó đành gạt bỏ mọi ước mơ… Bất giác nó nhìn xuống cơ thể của mình, còn đâu làn da đẹp đẽ mà nó ngầm hãnh diện với bạn bè, thay vào là những mảnh lam nham, co rút lại như vạt cỏ khô trên bờ ruộng trước nhà, ăn chay và tụng kinh chỉ khiến nó buồn và u uất hơn chớ chẳng giúp được gì, tự nhiên nó thấy có lỗi với cô giáo, nhiều lúc nó suy nghĩ vẩn vơ, làm sao có thể chấm dứt sự sống tẻ nhạt này?

    Quê nhà nó sau nhiều năm với bao thay đổi… Điểm nhóm ngày xưa mà nó từng đến đã mọc lên nhà thờ đẹp đẽ, cô giáo dạy Kinh Thánh nó giờ đã có con gái học lớp tám rồi, tên là Thái An… Con bé hay đến thăm nó cùng với mẹ mình, khi không đi cùng mẹ thì con bé đi với Yến. Yến kém nó vài tuổi, bây giờ đã là giáo viên dạy thiếu nhi. Nhớ ngày xưa khi còn đi nhóm, không câu gốc  hay câu hỏi nào cô giáo ra mà Yến chẳng trả lời được, nó đã cảm thấy ganh tỵ với Yến về điều này…

    Những người này bây giờ trở thành bạn của nó… Khi thì vào cắt tóc cho nó, khi thì hát, lúc kể chuyện vui, giúp nó đi tắm, hay đơn giản hơn là ngồi ăn cóc ổi và tám chuyện. Yến và Thái An giống nhau ở chổ cười nhiều, mà khi cười thì y như tít mắt lại, ăn trộm có vào rinh rổ cóc ổi đi chắc hai đứa nó cũng chẳng hay… Nó thích nhất là nghe hai đứa hát Thánh ca, có hôm ngẫu hứng nó còn lấy cả máy điện thoại ghi âm. Nó thích bài hát “Tôi biết Đấng nắm giữ tương lai” có đoạn “tương lai tôi còn có bao lo buồn, như tâm hồn vẫn luôn bình an vì tôi biết Đấng năm tương lai mình, và tôi biết Ngài đi trước tôi”. Nghe hay và cảm động lắm, chắc tác giả bài hát cũng trải qua những nghiệt ngã cuộc đời và kinh nghiệm về sự chăm sóc của Chúa, nó nghĩ vậy…

    Thật kỳ lạ, mỗi lần nghe những bài Thánh ca mà mọi người hát, lòng nó như được thắp lên chút bình yên giữa cuộc đời quẩn quanh vắng lặng, nó trân trọng những cố gắng bền bỉ mà Cô giáo dạy Kinh Thánh cho nó ngày xưa cũng như Thái An và Yến đem lại trong suốt gần một năm dài đằng đẵng, nó cảm nhận được tình yêu của Chúa qua những hành động chăm sóc của mọi người, qua những bài Thánh ca và cả những lúc tám chuyện, nụ cười hiếm như nắng mùa đông đã trở lại trên đôi môi khô hanh của nó… Đạo và đời giao lưu cho những nghiệt ngã có thêm điểm tựa sau buồn bã đời người…

    Nó bắt đầu thích nghe đọc Kinh thánh, nhất là những đoạn nói về niềm hy vọng, sự tha thứ, sự sống lại với thân xác không tỳ vết, về sự lo liệu của Cha trên trời… Chất ngọt của lời Chúa tựa mật ong như xuất ra mà qua đớn đau nó mới cảm nhận được… Những cam kết vững bền của Cha Thiên Thượng như thần dược xoa dịu niềm đau, vá lại mảnh lòng tan vỡ, thêm sức lực cho đời cơ cực của nó mà giông mưa và gió bấc đã làm buốt lạnh trái tim cô đơn…

     …Trên nền đất khô,từng bước chân lặng lẽ tập đi ,đôi chân nhăn lạnh đã có thêm hơi ấm, lòng nó như nghẹn lại và chùng xuống mỗi khi nghe lời bài Thánh ca: “Và rồi con đã nhận ra đắng cay, điều con có tựa như khói mây, và rồi con đã nhận ra hạnh phúc đời thật mong manh mau phai tàn…Trở về nhà Cha xóa đi vết thương lòng,trở về nhà Cha có Cha vẫn mong chờ, trở về nhà Cha tình Ngài vẫn thiết tha.”

     Như có phép màu, nó đã đi lại được bằng chính đôi chân của mình trong sự ngạc nhiên và vui mừng của tất cả mọi người, niềm vui ánh lên le lói trong mắt của mẹ nó…

     Nó đi ra sân, rồi ra ngõ xem bọn trẻ đá banh, nó cất từng bước bằng đôi chân quắt queo níu mỏi, vẫn con đường gập ghềnh lối dẫn vào nhà nó nhưng hôm nay thấy thân thương êm đềm chi lạ, nó mỉm cười thân thiện với tất cả mọi người…

    Và như một lẽ dĩ nhiên, nó đi đến nhà thờ, nơi có cô giáo ngày xưa, có Yến, có Thái An và Hội thánh chờ đợi nó với tất cả lòng nhiệt thành, có cả một lớp thiếu nhi đông đúc chào đón nó như một…người hùng. Đám nhỏ chẳng mảy may bận tâm nhìn thân thể “kỳ lạ” hay sợ sệt như nó vẫn tưởng, có nhiều giọt nước mắt rơi trong ngày hôm ấy - ngày nó trở về …

    Đời khổ như chìm sâu trong hy vọng, những chán chường cũng lặng lẽ cúi đầu trong trái tim được sưởi ấm của nó, sẽ là cảnh đời đục ngầu hơn nữa khi nó vẫn còn lê bước trên đường đời mà không có niềm tin vào Chúa, những ân tình đùm bọc của người thân, của Hội Thánh như xuyên thấm lòng nó, nó tự nhủ mình phải sống và sống cho tốt để sẻ chia những điều mà Chúa đã đem lại cho mình…

    Sống an vui giữa rối reng của phận người đâu phải dễ, những lo toan bộn bề vẫn còn đó nhưng nó biết rằng mình sẽ cứ bước tới như lòng Cha trên trời mong đợi, từ đây Chúa sẽ cầm bánh lái của con tàu cuộc đời, tình yêu của Ngài mỗi ngày như càng dày lên và mở rộng ra với nó…

    Cuộc sống cứ thế trôi qua như một dòng sông, có đoạn êm đềm, có đoạn uốn lượn, có lúc oằn lên phủ tung bọt trắng xóa, có lúc sẽ dừng lại một chút suy gẫm về hồi ức buồn những lận đận trầm kha …

    Cha ơi,con đã trở về !


    Quảng Nam, Tháng 8 năm 2013
    TABITHA


    TRỞ VỀ!

    Posted at  11/06/2019 10:52:00 SA  |  in  Lời Làm Chứng  |  Read More»



    Trong hình ảnh có thể có: 2 người, bao gồm Anne Thuỷ, mọi người đang cười, mọi người đang đứng, cây, trẻ em, thực vật và ngoài trời

    Trong cảnh chiều tà, mái nhà loang lổ gợi nét hoang phế như dấu tích của thời gian còn đọng lại, những sợi tơ vương của nhện như cộng hưởng thêm vào, làm cho ngôi nhà càng u mê tĩnh vắng, những tán lá dừa ngoài vườn như là nhân chứng cho những tiếng thở dài não nuột…

    Chiều từng chiều trôi qua trong mỏi mòn chờ đợi, trong cô quạnh, một chút hy vọng vẫn là cái gì đó rất xa xỉ với nó …

    Nó ngồi đây, lòng tê tái nỗi sợ về cuộc sống hẩm hiu, nỗi sợ của phận người ngắn ngủi lại lắm nhọc nhằn, cái tủi thân của mất mát đắng cay đã đè bẹp tuổi xuân đang phơi phới…

    Tai nạn thình lình xảy đến với nó vào độ rày năm ngoái  khi nó từ miền Trung vào Đà lạt thăm em, em nó giúp đổ xăng cho ông chủ để lấy tiền để học lên Trung học, nó loay hoay phụ với bà giúp việc để dọn dẹp lại cửa hàng, bà giúp việc đốt hương cho thần tài ngày rằm làm lửa bén hơi từ hầm xăng bùng lên khiến thân thể nó và bà như hai ngọn đuốc sống, giây phút kinh hoàng mà nó chỉ được nhìn thấy trong phim hành động của Mỹ, lấy hết sức bình sinh nó kêu cứu và nhảy qua bờ rào hai mét vật xuống đất rồi ngất lịm đi…

    Ba ngày sau đó nó tỉnh lại trong bệnh viện Chợ Rẫy, toàn thân trắng toát bông băng, tóc trên đầu đã bị cạo sạch, chỉ có mảnh vải trắng hờ hững vắt ngang qua thân nó, bấm ngón tay mấy lần nó vẫn nghĩ là mình đang nằm mơ … cái chất thuốc mê vẫn còn đánh lừa nó cho đến khi có người nói loáng thoáng: “Như vậy vẫn còn may, bà kia đã “đi” rồi”

    Những ngày sau đó với nó là chuỗi ngày đau đớn đến tận xương tủy: sốt cao liên tục, từng mảnh da rệu rã đen sì lần lượt rớt ra khỏi cơ thể, thấy nó kêu la trong đau đớn có một cô lại gần hỏi nó: Con tin có Chúa không? Nó trả lời nhát gừng “không” cô kia thỏ thẻ “để Cô cầu nguyện cho con bớt đau nghe?” nó chẳng buồn đáp lại, cô kia cầm tay nó cúi đầu cầu nguyện, tiếng cầu nguyện tha thiết của cô kéo nó về với dĩ vãng…

     Tuổi thơ nó cũng từng có thời đi nhóm với lớp thiếu nhi ở một điểm nhóm gần nhà, bạn Thương giới thiệu và dắt đến: kể cũng vui, được múa hát, nghe kể chuyện và sinh hoạt, tính nó vốn ham vui mà, nhưng dần hồi nó không còn đến đó với lòng nhiệt thành nữa, anh bạn cùng xóm của nó không muốn nó đi, thế rồi thi thoảng nó mới đến mặc cho Thương năn nỉ hết lời, nó không muốn làm anh chàng kia buồn, chỉ thế thôi mà cái Thương không hiểu… Rồi nó thi rớt tốt nghiệp cấp hai (đầu óc suốt ngày cứ nghĩ tình cảm vẩn vơ thi không rớt mới lạ) và đó là cái cớ nó rời xa Chúa: nếu Chúa yêu nó tại sao nó lại thi rớt?

    Có cái gì nóng hổi rơi xuống tay kéo nó về với thực tại, hình như cô kia khóc thì phải, cô khóc thì giúp gì được cho nó? Cái nó cần là xuống khỏi chiếc giường chết tiệt này mà nó biết cô kia không làm được, lòng nó chẳng mảy may cảm động hay nói lời cảm ơn như một việc nên làm…

    …Sau một tháng, nó không chết mà trở về trong sự ngạc nhiên của gia đình và làng xóm với vết bỏngsáu mươi lăm phần trăm cơ thể, khi mọi người đã nghĩ đến việc lo “hậu sự” cho nó, thế mới biết, sống cũng khó mà chết cũng không dễ chút nào, số Trời chưa kêu, bà ngoại nó bảo thế.

    Bà con, bạn bè đến thăm nhiều lắm, nỗi cơ khổ của nó dường như chạm vào lòng trắc ẩn của con người, xen lẫn tiếng cảm thông, an ủi và khích lệ nó nghe có tiếng thở dài man mác khi người ta nhìn vào thân thể của nó… Cô giáo cũ dạy văn cho nó ngày xưa cũng đến, cô mang cho nó cả cá đĩa tụng kinh phật, bảo nó ăn chay và nghe tụng cho khuây khỏa, nó làm theo, chớ ngồi không thì biết làm gì? Hai chân queo quắt không đi lại được, xem ti vi hoài thấy cũng chán.

    Mái tóc Ba nó như có thêm sợi bạc từ ngày thấy nó về với thân hình tàn tạ,thi thoảng ông ngước lên nhìn tấm hình chụp chung với nó vào dịp tết năm ngoái rồi lặng lẽ quay đi, ba uống rượu nhiều hơn, lòng nó càng như đắng lại khi mỗi lần bắt gặp ánh mắt trĩu nặng của mẹ, cơ hồ như cả nỗi khổ đau của thế gian này đọng lại trong đó…

    Ngày như dài hơn trong nỗi chán chường vô vị, con đường dẫn vào lối nhà nó như càng ghập ghềnh trong sự mỏi mòn, những hồn nhiên của tuổi thiếu nữ vụt tắt lặng đi sau tai nạn hiểm nghèo, trong cảnh khốn cùng nó đành gạt bỏ mọi ước mơ… Bất giác nó nhìn xuống cơ thể của mình, còn đâu làn da đẹp đẽ mà nó ngầm hãnh diện với bạn bè, thay vào là những mảnh lam nham, co rút lại như vạt cỏ khô trên bờ ruộng trước nhà, ăn chay và tụng kinh chỉ khiến nó buồn và u uất hơn chớ chẳng giúp được gì, tự nhiên nó thấy có lỗi với cô giáo, nhiều lúc nó suy nghĩ vẩn vơ, làm sao có thể chấm dứt sự sống tẻ nhạt này?

    Quê nhà nó sau nhiều năm với bao thay đổi… Điểm nhóm ngày xưa mà nó từng đến đã mọc lên nhà thờ đẹp đẽ, cô giáo dạy Kinh Thánh nó giờ đã có con gái học lớp tám rồi, tên là Thái An… Con bé hay đến thăm nó cùng với mẹ mình, khi không đi cùng mẹ thì con bé đi với Yến. Yến kém nó vài tuổi, bây giờ đã là giáo viên dạy thiếu nhi. Nhớ ngày xưa khi còn đi nhóm, không câu gốc  hay câu hỏi nào cô giáo ra mà Yến chẳng trả lời được, nó đã cảm thấy ganh tỵ với Yến về điều này…

    Những người này bây giờ trở thành bạn của nó… Khi thì vào cắt tóc cho nó, khi thì hát, lúc kể chuyện vui, giúp nó đi tắm, hay đơn giản hơn là ngồi ăn cóc ổi và tám chuyện. Yến và Thái An giống nhau ở chổ cười nhiều, mà khi cười thì y như tít mắt lại, ăn trộm có vào rinh rổ cóc ổi đi chắc hai đứa nó cũng chẳng hay… Nó thích nhất là nghe hai đứa hát Thánh ca, có hôm ngẫu hứng nó còn lấy cả máy điện thoại ghi âm. Nó thích bài hát “Tôi biết Đấng nắm giữ tương lai” có đoạn “tương lai tôi còn có bao lo buồn, như tâm hồn vẫn luôn bình an vì tôi biết Đấng năm tương lai mình, và tôi biết Ngài đi trước tôi”. Nghe hay và cảm động lắm, chắc tác giả bài hát cũng trải qua những nghiệt ngã cuộc đời và kinh nghiệm về sự chăm sóc của Chúa, nó nghĩ vậy…

    Thật kỳ lạ, mỗi lần nghe những bài Thánh ca mà mọi người hát, lòng nó như được thắp lên chút bình yên giữa cuộc đời quẩn quanh vắng lặng, nó trân trọng những cố gắng bền bỉ mà Cô giáo dạy Kinh Thánh cho nó ngày xưa cũng như Thái An và Yến đem lại trong suốt gần một năm dài đằng đẵng, nó cảm nhận được tình yêu của Chúa qua những hành động chăm sóc của mọi người, qua những bài Thánh ca và cả những lúc tám chuyện, nụ cười hiếm như nắng mùa đông đã trở lại trên đôi môi khô hanh của nó… Đạo và đời giao lưu cho những nghiệt ngã có thêm điểm tựa sau buồn bã đời người…

    Nó bắt đầu thích nghe đọc Kinh thánh, nhất là những đoạn nói về niềm hy vọng, sự tha thứ, sự sống lại với thân xác không tỳ vết, về sự lo liệu của Cha trên trời… Chất ngọt của lời Chúa tựa mật ong như xuất ra mà qua đớn đau nó mới cảm nhận được… Những cam kết vững bền của Cha Thiên Thượng như thần dược xoa dịu niềm đau, vá lại mảnh lòng tan vỡ, thêm sức lực cho đời cơ cực của nó mà giông mưa và gió bấc đã làm buốt lạnh trái tim cô đơn…

     …Trên nền đất khô,từng bước chân lặng lẽ tập đi ,đôi chân nhăn lạnh đã có thêm hơi ấm, lòng nó như nghẹn lại và chùng xuống mỗi khi nghe lời bài Thánh ca: “Và rồi con đã nhận ra đắng cay, điều con có tựa như khói mây, và rồi con đã nhận ra hạnh phúc đời thật mong manh mau phai tàn…Trở về nhà Cha xóa đi vết thương lòng,trở về nhà Cha có Cha vẫn mong chờ, trở về nhà Cha tình Ngài vẫn thiết tha.”

     Như có phép màu, nó đã đi lại được bằng chính đôi chân của mình trong sự ngạc nhiên và vui mừng của tất cả mọi người, niềm vui ánh lên le lói trong mắt của mẹ nó…

     Nó đi ra sân, rồi ra ngõ xem bọn trẻ đá banh, nó cất từng bước bằng đôi chân quắt queo níu mỏi, vẫn con đường gập ghềnh lối dẫn vào nhà nó nhưng hôm nay thấy thân thương êm đềm chi lạ, nó mỉm cười thân thiện với tất cả mọi người…

    Và như một lẽ dĩ nhiên, nó đi đến nhà thờ, nơi có cô giáo ngày xưa, có Yến, có Thái An và Hội thánh chờ đợi nó với tất cả lòng nhiệt thành, có cả một lớp thiếu nhi đông đúc chào đón nó như một…người hùng. Đám nhỏ chẳng mảy may bận tâm nhìn thân thể “kỳ lạ” hay sợ sệt như nó vẫn tưởng, có nhiều giọt nước mắt rơi trong ngày hôm ấy - ngày nó trở về …

    Đời khổ như chìm sâu trong hy vọng, những chán chường cũng lặng lẽ cúi đầu trong trái tim được sưởi ấm của nó, sẽ là cảnh đời đục ngầu hơn nữa khi nó vẫn còn lê bước trên đường đời mà không có niềm tin vào Chúa, những ân tình đùm bọc của người thân, của Hội Thánh như xuyên thấm lòng nó, nó tự nhủ mình phải sống và sống cho tốt để sẻ chia những điều mà Chúa đã đem lại cho mình…

    Sống an vui giữa rối reng của phận người đâu phải dễ, những lo toan bộn bề vẫn còn đó nhưng nó biết rằng mình sẽ cứ bước tới như lòng Cha trên trời mong đợi, từ đây Chúa sẽ cầm bánh lái của con tàu cuộc đời, tình yêu của Ngài mỗi ngày như càng dày lên và mở rộng ra với nó…

    Cuộc sống cứ thế trôi qua như một dòng sông, có đoạn êm đềm, có đoạn uốn lượn, có lúc oằn lên phủ tung bọt trắng xóa, có lúc sẽ dừng lại một chút suy gẫm về hồi ức buồn những lận đận trầm kha …

    Cha ơi,con đã trở về !


    Quảng Nam, Tháng 8 năm 2013
    TABITHA


    Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2019

    Với đức tin đơn sơ bà cụ đã bày tỏ đức tin mãnh liệt của bà nơi Chúa 
    .


    .








    PHỎNG VẤN ĐỨC TIN CỦA MỘT BÀ CỤ TIN CẬY VÀO CHÚA

    Posted at  11/03/2019 01:04:00 CH  |  in  Lời Làm Chứng  |  Read More»

    Với đức tin đơn sơ bà cụ đã bày tỏ đức tin mãnh liệt của bà nơi Chúa 
    .


    .








    Thứ Ba, 29 tháng 10, 2019

    Kết quả hình ảnh cho Tôi Đã Chọn


    Tôi chống Cơ-đốc-giáo
    Gia đình tôi thật ra không thực hành một tôn giáo nào. Cha tôi theo Nho-giáo, nhưng có khuynh hướng tự do. Mẹ tôi theo Phật-giáo như trăm nghìn đồng bào khác, thỉnh thoảng đi chùa chiền lễ bái ngày rằm và mùng một, và ăn chay. 
    Riêng tôi, tôi chống mọi thứ tôn giáo; đối với tôi, tôn giáo chỉ là mê tín dị đoan, dành riêng cho hạng đàn bà quê mùa, mù chữ, dốt nát.
    Đến bậc trung học, tôi được cha mẹ gởi vào một trường tư thục Công-giáo La-mã ở Huế, không phải vì có lòng mộ đạo, nhưng chỉ vì chúng tôi không tìm được trường nào khác ở vùng ấy. Ngoài những môn học thường lệ, học sinh còn phải học giáo lý cương yếu và đọc kinh trước mỗi giờ học.
    Như tất cả các học sinh trong trường, tôi quì gối đọc kinh, hoặc giả bộ đọc, cố ra vẻ trang nghiêm sùng kính nhiệt thành. Nhưng trong thâm tâm tôi ghét mọi điều ấy. Như tôi đã nói, trên nguyên tắc, tôi chống mọi thứ tôn giáo. Nhưng tôi ghét Công-giáo hoặc Cơ-đốc giáo nhất, lúc bấy giờ tôi lầm tưởng hai danh từ này đồng nghĩa.
    Là một người yêu nước nhiệt cuồng, nên khi các bạn học mãi vui chơi ngoài phố, tôi say sưa đọc lén đủ thứ tác phẩm cách mạng. Dạo ấy các nhóm cách mạng bí mật mọc lên như nấm, nhằm mục đích đánh đuổi thực dân Pháp và giành lại quyền độc lập cho xứ sở.
    Đối với tôi Cơ-đốc-giáo hoàn toàn do thực dân Pháp phát minh, cốt ru ngủ dân ta hầu dễ bề bóc lột và thống trị nước ta mãi mãi; các nhà truyền giáo chỉ là một đội quân tiên phong đi mê hoặc dân chúng và dọn đường cho đạo quân xâm lăng.
    Từ tận đáy lòng, tôi hoàn toàn đồng ý với Karl Marx rằng: “Tôn giáo là thuốc phiện của dân chúng.” Vì thế, khi ra khỏi trường trung học ấy, tôi càng chống nghịch Cơ-đốc-giáo hơn trước.
    Đi tìm Chân lý
    Sau cuộc thế chiến thứ hai, tôi qua Âu Châu. Cuối năm 1954, tôi lâm bệnh, phải nằm điều trị tại một bệnh viện ở Haute-Savoie (Pháp). Suốt hai năm nằm trong bệnh viện tĩnh mịch, tôi có đủ thì giờ nghĩ ngợi, suy tư. Tôi mơ hồ nhận thấy rằng mang bệnh tật giữa lúc bước vào chỗ rẽ quan trọng trên đường sự nghiệp thật là một thứ hình phạt do một Đấng cao cả đã bất mãn với tôi, với nếp sống vô tư và tội lỗi của tôi. Phải chăng đây chính là triệu chứng báo hiệu một hiểm họa chết mất đang chờ đợi tôi nếu tôi cứ tiếp tục sống theo nếp sống cũ? Từng loạt những câu hỏi cổ điển mà con người tự hỏi từ thuở khai thiên lập địa bắt đầu dày vò tâm trí tôi: “Ta từ đâu đến? Ta làm chi ở đời này? Rồi ta sẽ đi đâu?” Đang khi chưa tìm được lời giải đáp, thì cuộc đời của tôi chỉ là một câu đố, và tôi không thể nào yên tâm được. Vốn có óc hoài nghi, tôi thích đặt câu hỏi về mọi sự và nghi ngờ mọi sự, vì tôi cho rằng hoài nghi là một dấu hiệu tri thức hơn người. Được hấp thụ học vấn Âu Tây, được tiếp xúc với nền văn hóa của Pháp, với óc trào lộng của Voltaire, với óc hoài nghi của Descartes, với luận điệu “Que Sais-je?” của Montaigne, tôi không dễ gì giải quyết những vấn đề thắc mắc ấy. Lo lắng băn khoăn chỉ là bản tính của con người, vì con người vốn hay suy tưởng. Trong không gian và thời gian, con người bị vũ trụ bao la chế ngự và đè bẹp; tuy nhiên, con người vẫn nuôi cao vọng thấu triệt vũ trụ. Khoa học đã thỏa mãn phần nào cao vọng ấy; khoa học đã giúp con người nhận thấy rằng vũ trụ có trật tự, thống nhất và dường như đang hướng về những mục tiêu nào đó. Nhưng làm sao giải nghĩa những sự kiện ấy nếu không nhìn nhận có Đấng Tạo Hóa?
    Tôi bắt đầu hỏi: Thượng Đế thực hữu hay không? Hay nói đúng hơn, lý trí của tôi, do trực giác thúc đẩy, biết trước chỉ có thể chọn một trong hai lẽ vô cùng quan trọng; hoặc thừa nhận có Thượng Đế, hoặc thừa nhận một sự phi lý hoàn toàn. Không có Thượng Đế mọi sự đều phi lý, không sao giải thích được, và cuộc đời – như đại văn hào Shakespeare đã viết trong bi kịch Macbeth – chỉ là “một truyện do anh ngốc kể, đầy dẫy tiếng ồn ào và giận dữ mà chẳng có nghĩa lý gì.”
    Tạo vật chứng minh rằng nguyên thủy có Đấng Tạo Hóa. Đạo đức và trí tuệ của con người làm chứng rằng con người tất phải do một Đấng Tạo Hóa đạo đức và thông sáng tuyệt vời sinh thành. Thật đúng như một câu Kinh Thánh mà tôi đọc thấy sau này: “Các tầng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời; bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm” (Thi-thiên 19:1). Phương pháp loại suy liên tục để suy luận về Thượng Đế ấy chính là phương pháp trí năng, đi từ cái đã biết mà suy ra cái chưa biết.
    Một phương pháp tri thức khác, thuộc phạm vi luân lý, khởi đi từ sự phân biệt Thiện và Ác. Khoa học đã tìm thấy trật tự của vũ trụ. Như thế sao lại không thể chấp nhận một trật tự trong cõi đạo đức? Một trật tự đạo đức mà Antigone, một nhân vật của Sophocle, đã công bố những định luật vẫn khắc sâu trong tâm khảm và lương tâm con người. Theo trật tự đạo đức ấy Thiện phải thắng Ác, phải đánh bại mọi cường lực, bạo tàn của Ác, của bất công, của đau khổ, của sự chết – một việc không thể nào thực hiện trong vũ trụ và nhân sinh hiện tại. Như thế, sao ta lại không thể tin rằng có một Đấng cao cả luôn luôn chăm chú theo dõi việc lành của người thiện, việc dữ của kẻ ác để rồi một ngày kia tái lập trật tự đạo đức và thưởng thiện phạt ác phân minh? Chả thế mà con người khi đứng trước nanh vuốt của bất công, đau khổ và tử thần, đã tìm được nguồn an ủi nơi Thượng Đế và do đó đã đặt lòng tin nơi một lẽ công bình, thanh liêm khiết bạch, cao siêu tuyệt đối. Chính vì thế mà hiền triết Socrate đã tuyên bố không hề sợ chết – mặc dầu ông bị bức phải uống thuốc độc chết cách oan uổng – chỉ vì ông tin rằng bên kia cõi chết còn có một “điều gì dành sẵn cho người thiện, tuyệt hảo hơn điều dành cho kẻ ác.” (Platon, Phédon 63c).
    Tôi tiến trên con đường nhận biết Đức Chúa Trời – nhưng đây mới chỉ là một nhận thức mơ hồ, một khái niệm, không hơn không kém. Ý niệm về Đức Chúa Trời ở mỗi người mỗi khác: dường như không có mối liên quan nào giữa Thượng Đế của người Démangs ở Mã-lai; Ngọc-hoàng, Đấng chí tôn, Thượng Đế của phái Vệ-đà ở Ấn-độ; Thượng Đế của Aristote, của Spinoza và Đức Chúa Trời của Cơ-đốc-giáo. Thượng Đế của tôi lúc bấy giờ còn là “Đức Chúa Trời của các nhà triết học và bác học” – danh từ Pascal đã dùng để đối chiếu với “Đức Chúa Trời của Chúa Cứu Thế Giê-xu.”…….Thật ra tôi cố ý gạt bỏ Cơ-đốc-giáo ra ngoài suy luận, vì tôi không bao giờ nghĩ rằng Cơ-đốc-giáo có thể đem lại câu giải đáp mà tôi đang tìm kiếm.
    Trong khi tìm kiếm chân lý, tôi không quên tham khảo các tôn giáo của tổ tiên. Tôi gia công nghiên cứu kỹ càng Nho-giáo và Phật-giáo, hai hệ thống tôn giáo chính của nước nhà, và lần này, với một một tinh thần không thiên kiến và một tấm lòng cởi mở. Nhưng dầu tôi đã tận tâm nghiên cứu, Nho-giáo và Phật-giáo vẫn không làm thỏa mãn được tấm lòng khát khao chân lý của tôi.
    Đức Chúa Trời của Chúa Cứu Thế Giê-xu
    Giữa khi tâm trí tôi đang hoang man rối loạn, một hôm, một nhà truyền bá Phúc Âm ghé thăm tôi. Ông đến vào lúc tôi đang sửa soạn đi nghỉ theo lời bác sĩ căn dặn. Tôi miễn cưỡng tiếp ông mặc dầu gần như muốn đuổi khéo ông ra cửa. Hai bên chỉ gặp nhau ở một điểm – ông ta đã viện lẽ ấy để bước vào phòng tôi – là hai chúng tôi cùng nói được tiếng Anh. Thế là chúng tôi dùng Anh-ngữ đàm đạo về Cơ-đốc-giáo.
    Tôi nhẹ cả người khi ông đứng lên từ giả, nhưng trước khi đi, ông còn tặng tôi một quyển Kinh Thánh Tân Ước và khuyên tôi đọc. Theo phép lịch sự, tôi nhận quyển sách mặc dầu chẳng muốn đọc tí nào. Chờ ông đi khỏi, tôi bỏ quyển sách bìa xanh, cỡ bỏ túi, vào ngăn bàn. Ác cảm từ thuở niên thiếu đối với Cơ-đốc-giáo đã dịu bớt từ lâu, nhưng tôi vẫn còn nhiều nghi kỵ. Tôi đã từng được dịp – nhất là những năm lưu trú ở Anh quốc – bắt gặp một quyển Kinh Thánh hoặc các sách Cơ-đốc-giáo khác, nhưng chẳng bao giờ tôi tọc mạch mó tay đến loại văn chương quá buồn tẻ đó chỉ dành cho riêng một hạng người đặc biệt, như các linh mục và mục sư.
    Tuy nhiên, từ khi quyển sách nhỏ ấy nằm trong ngăn bàn, mỗi khi kéo ngăn ra, mắt tôi lại phải nhìn thấy nó, tay lại đụng đến nó. Ác cảm cố hữu của tôi lần lần tiêu tan và tôi bắt đầu mở sách, liếc mắt đọc qua. Tôi chợt có ý muốn nghiên cứu quyển sách ấy để tìm hiểu những điển tích Kinh Thánh nhan nhản trong văn chương Anh Pháp. Tôi nhận thấy rằng nếu không đọc qua Kinh Thánh, là quyển sách căn bản của một nền văn hóa đang chi phối hàng nghìn triệu người thì kiến thức tôi còn nhiều khuyết điểm. Mặt khác, nhà truyền đạo vẫn kiên nhẫn đến thăm tôi đều đều để bàn luận về Cơ-đốc-giáo, lẽ nào tôi cứ chịu đóng vai câm, điếc trước mặt ông ta.
    Tôi phải cố gắng mãi mới có thể bắt đầu nghiên cứu Kinh Thánh Tân Ước cách chín chắn. Dần dần tôi càng say mê đọc quyển sách nhỏ ấy như một quyển tiểu thuyết mê lòng nhất. Tôi bỏ cả thì giờ, thu hết tâm trí vào việc nghiên cứu và càng đọc, càng muốn đọc thêm. Tôi gởi mua một bộ Kinh Thánh toàn thư; ít lâu sao, tôi nhận được quyển Kinh Thánh có tham chiếu do tiến sĩ scofield chú giải. Tôi đọc suốt từ đầu đến cuối, và gởi mua thêm nhiều tác phẩm luận về các phương diện khác nhau của đời sống Chúa Giê-xu và lời giáo huấn của ngài. Tôi cảm thấy càng khao khát biết thêm về “Đức Chúa Trời của Chúa Cứu thế Giê-xu,” một cơn khao khát chưa hề có trong đời tôi.
    Cố nhiên lúc ấy tôi chưa hiểu biết mọi điều trong Kinh Thánh – đến bây giờ tôi cũng không dám nhận là đã thấu triệt đâu. Nhưng với lòng khiêm tốn, tôi nhận rằng với trí tuệ hữu hạn của con người, tôi không dám mong hiểu thấu tức khắc toàn thể chân lý thần diệu. Tôi đồng ý với Descartes và Spinoza, là hai triết gia đã chủ trương rằng mọi khái niệm rõ rệt của tâm hồn chắc chắn là chân xác, rằng lương tâm phải là tiêu chuẩn duy nhất của tín ngưỡng. Từ nghìn xưa, trí óc loài người đã bị dày vò và tuyệt vọng khi đi tìm lời giải đáp những câu hỏi quan trọng: “Khôn ngoan ở đâu? Chân lý là gì?” Pyrrhon, một đại triết gia hoài nghi Hi-lạp, từng theo gót đạo quân viễn chinh của Alexandre sang Ấn-độ và từng phiêu lưu trong hoài nghi phổ quát, đã phải tuyệt vọng vì không thể tìm ra chân lý. Triết gia Ludwig Feuerbach, người đã bỏ thần học quay sang nghiên cứu triết học, đến giờ hấp hối, tâm trí bị dày vò rối loạn cực điểm trong một nỗi thống khổ sâu xa, đã phải thú nhận rằng cuộc tìm tòi của mình là vô hiệu quả, và trước khi tắt hơi ông rên rĩ: “Chân lý ơi, chân lý hỡi! Ngươi ở đâu?”
    Triết học không thể giải quyết vấn đề nầy cách ổn thỏa. Vì con người – con người thiên nhiên – bị mù quáng. Con người sinh ra trong xác thịt, và chính vì bản chất xác thịt, nên không thể nào hiểu nổi những việc siêu nhiên và thiêng liêng, là những điều mắt chư thấy, tai chưa nghe và lòng người chưa hề nghĩ đến (I cô-rinh-tô 2:9). Trí năng của con người tự nó không thể tìm ra chân lý thiêng liêng, đúng như lời tôi đọc trong Thánh Kinh sau này: Đức Chúa Trời phán: Ý tưởng các ngươi chẳng phải là ý tưởng ta; đường lối Ta chẳng phải là đường lối các ngươi. Vì các tầng trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối Ta cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu. Con người thiên nhiên dẫu tài hoa, đạo đức, học thức, thông minh đến đâu, cũng không thể nào nhận thức được chân lý thiêng liêng, vì xác thịt thù nghịch với Đức Chúa Trời (Rô-ma 8:7). Đúng như lời Chúa Giê-xu đã phán: Lạy Chúa của trời đất, tôi tạ ơn Cha vì Ngài đã giấu điều này với người khôn ngoan thông sáng, mà tỏ cho con trẻ hay (Ma-thi-ơ 11:25). Đối với người thiên nhiên, những điều thuộc linh có vẻ vô nghĩa điên dại.
    Tâm trí con người cần phải đổi mới trước khi nhận thức chân lý, bước đầu tiên cho sự đổi mới là tiếp nhận Đức Chúa Trời, nhìn nhận Ngài thực hữu. Lúc ấy Ngài mới ban cho ta khôn ngoan để hiểi biết những điều mầu nhiệm của Ngài.
    Tin quyết như Aristote rằng: “Cách học gảy thụ cầm (harpe) tốt nhất là gảy ngay, ” Tôi quyết định nhìn nhật Đức Chúa Trời là một thật sự của đời sống hằng ngày và đầu phục Ngài vô điều kiện. Tôi nhìn nhận rằng muốn tìm thấy chân lý, trước hết phải cởi bỏ những định kiến, những quan niệm mà loài người thường cho là xác thực. Tôi muốn tin trong lòng, chứ không phải nhận bằng trí óc.
    Với tâm trạng ấy, tôi đọc lại Kinh Thánh hằng ngày, tĩnh tâm đọc chậm chạp từng câu một, lúc nào cũng cố lắng nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời. Tôi đã tới mức ganh đua với Pascal mà cầu nguyện bằng Kinh Thánh hơn là đọc Kinh Thánh. Chẳúng bao lâu, ánh sáng tràn ngập tâm trí tôi; tôi được liên lạc với Chúa Giê-xu và những mối nghi ngờ của tôi lần lượt tiêu tan hết. Dường như nhiều “vảy cá” đã rơi khỏi mắt tôi, và những điều trước kia tôi cho là rất khó hiểu, thì bây giờ lại hóa ra giản dị, sáng sủa. Vì Đức Chúa Trời làm được mọi sự, nên tôi có thể tin nhận toàn bộ Kinh Thánh, không chút e dè, cả đến những điểm mới xem có vẻ như mâu thuẫn, vì chính Chúa Cứu Thế Giê-xu đã dứt khoát khiến cho Kinh Thánh đầy ý nghĩa và đủ bằng chứng xác thực. Trong Kinh Thánh quả có “đủ ánh sáng để rọi đường cho những người nào muốn được soi sáng” như Pascal đã nói.
    Khi đọc Kinh Thánh, tôi hoàn toàn nhận biết tình trạng khốn nạn, không xứng đáng của mình, và hiểu rằng tôi ô uế, hư hoại như mọi người thiên nhiên khác. Tội lỗi đã đào một hố sâu giữa Đức Chúa Trời và tôi, và khiến Ngài quay mặt không nghe tiếng tôi (Ê-sai 59:2). Vâng, hết thảy loài người đều phạm tội – tôi không được ngoại trừ – và tiền công của tội lỗi là sự chết, là lửa đời đời trong vực sâu, địa ngục (Rô-ma 6:23). Nhưng Đức Chúa Trời yêu thương nhân loại đến nỗi đã ban Con Một của Ngài. Chúa Giê-xu đã xuống mặt đất khốn nạn này để chịu đau đớn và chịu chết thế cho ta, ngõ hầu huyết Ngài đổ ra xóa sạch tội lỗi loài người. Nhờ đó, khi ta tin đến Chúa Giê-xu, ta được phục hòa với Đức Chúa Trời, được thừa nhận là con cái Ngài. Kinh Thánh nhiều lần công bố rằng sở dĩ ta được cứu rỗi không phải nhờ việc lành, hi sinh hoặc công đức riêng, nhưng chính là nhờ lòng yêu thương, nhân từ của Đức Chúa Trời. Ấy là nhờ ân sủng, bởi đức tin mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình (Ê-phê-sô 2:8-9).
    Sự cứu rỗi là một tặng phẩm, một ân tứ vô điều kiện của Đức Chúa Trời; Không thể mua được hay trả giá bất cứ cách nào. Không thể nào được cứu rỗi do việc lành, cầu kinh, thánh lễ, kiêng ăn hoặc ép xác khổ tu (Cô-lô-se 2:20-23; I Ti-mô-thê 4:1-5), hoặc bởi một nghi lễ tôn giáo nào. Ta chỉ cần tiếp nhận và quý chuộng ân tứ ấy cùng kính yêu Đấng đã thi ân. Tôi vốn là một tội nhân, không thể tự cứu lấy mình; tôi cần Chúa cứu, ngoài Chúa Giê-xu không ai cứu được tôi. Ngài đã đổ huyết trên thập tự giá để tẩy sạch tội lỗi tôi (I Giăng 1:7), và hòa giải giữa Đức Chúa Trời và tôi. Ngài đã chịu chết vì tội lỗi tôi, để tôi được sự sống mới, sự sống đời đời. Chỉ nhờ Chúa Giê-xu, chúng ta mới biết được Đức Chúa Trời, không nhờ Ngài chẳng ai được đến cùng Đức Chúa Cha (Giăng 14:6).
    Tôi đã tiếp nhận Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế của chính tôi.
    Tái Sinh
    Sự cứu rỗi là một việc riêng giữa ta và Chúa Cứu Thế. Tin Chúa Cứu Thế không phải chỉ có nghĩa là tin một vài điều liên quan đến Ngài. Chỉ lấy trí óc mà tán đồng các chân lý của Phúc Âm thì chưa đủ; lắm tín đồ chính thức đã trung thành vâng giữ luật pháp Chúa Cứu Thế, nhưng họ chỉ có một tín ngưỡng trong trí óc, chứ chưa có đức tin thật. Muốn vào Nước Đức Chúa Trời, ta phải trở thành đơn sơ như con trẻ – nói cách khác, ta cần một tấm lòng đơn thuần hơn là sử dụng thái quá óc phê bình và trí năng duy lý; ta cần phải tin cậy hoàn toàn tiếng phán của Đức Chúa Trời như con trẻ tin cậy cha. Giữ đúng các nghi lễ của giáo hội cũng chưa đủ để thay đổi tấm lòng xấu xa và tội lỗi của con người. Ngày xưa, thuật sĩ Si-môn đã theo đạo và chịu báp-tem, nhưng vẫn không có lòng ngay thẳng trước mặt Đức Chúa Trời, vì chưa thật lòng tin nhận Chúa (Công-vụ 8:13, 21-24); trường hợp ấy đủ soi sáng cho ta.
    Muốn trở thành tín đồ Chúa Cứu Thế, ta phải khiêm cung đặt hết lòng tin nơi Chúa hằng sống. Trước hết ta phải ăn năn và đầu phục Chúa Cứu Thế cách hoàn toàn, tuyệt đối không chút dè dặt, cùng cầu xin Ngài cứu vớt ta, tha thứ tội lỗi ta. Khi một người hoàn toàn tin cậy Chúa, tội lỗi liền được tha và Chúa Cứu Thế ngự vào lòng người ấy. Cả đời sống người ấy được đổi mới, một lối sinh hoạt mới mẻ bắt đầu từ đây. Đối với người tín đồ chân thật, Đức Chúa Trời luôn luôn hiện hữu. Ta biết Chúa, yêu Chúa, thờ phượng Chúa. Chúa là nguồn vui thỏa của ta. Làm theo ý Ngài là mục đích chính của đời ta. Nhiều tư tưởng mới mẻ thành hình trong tâm trí ta. Ta đánh giá mọi sự theo một giá biểu mới: ta yêu nhiều điều trước kia ta ghét, nhiều điều trước kia ta mến chuộng nhắc lại trở thành vô vị, lạt lẽo. Nhiều qui tắc sinh hoạt mới mẻ, nhiều cớ tích hành động cao thượng và nhiều ước vọng tân kỳ đã thành hình trong ta. Ta có những sở thích thuộc linh mới mẻ hướng về những giá trị cao cả, thanh khiết và bất diệt. Chúa ban cho ta một quyền năng siêu việt để chế ngự tội lỗi, vì Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho ai bị cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho anh em ra khỏi, để anh em có thể chịu được (I Cô-rinh-tô 10:13). Bây giờ ta thích cầu nguyện – sự cầu nguyện thật chính là hầu chuyện và tương giao với Đức Chúa Trời. Ta yêu anh em trong Chúa và tìm cách gần gũi họ.
    Những thay đổi ấy chứng tỏ rằng ta vượt khỏi sự chết mà đến sự sống, rằng ta đã được sự sống mới. Tâm linh chết và bất động mà ta thừa hưởng từ lúc sinh ra nay được Chúa Thánh Linh làm cho sống, thế là ta được tái sinh. Sự tái sinh thật cần thiết, vì chưa tái sinh người thiên nhiên không thể nào đẹp lòng Chúa hay vâng lời Ngài, cũng không thể nào hiểu biết Ngài được. Ni-cơ-đem là một nhà trí thức thông thạo các vấn đề trong Kinh Thánh, cũng là một người sùng đạo, đã từng lãnh đạo dân Do-thái ngày xưa. Nhưng Chúa Giê-xu đã phán với Ni-cơ-đem: Nếu một người chẳng sinh lại (tái sinh), thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời…. Các ngươi phải sinh lại (Giăng 3:3-7). Ta phải được Thánh Linh Đức Chúa Trời sinh lại, mới được nhập vào gia đình Ngài, mới được lãnh sự sống đời đời, mới có thể nối lại sự tương giao mật thiết với Ngài, một sự tương giao đã gián đoạn từ khi A-đam, thủy tổ loài người, sa ngã.
    Kinh nghiệm tái sinh không phải là những mơ mộng viễn vông, nhưng là một sự thật hiển nhiên mà cả tâm thần ta đều cả biết. Ai đã giao phó đời mình vào tay Chúa Giê-xu đều có kinh nghiệm ấy. Đã đành không phải ngay tức khắc ta có thể kinh nghiệm một sự đổi mới hoàn toàn; trong trường hợp của tôi, sự thay đổi được thực hiện lần lần, nhưng hằng ngày tôi có thể cảm biết mình đang đổi mới. Trên hết mọi sự, tôi mong ước rũ sạch mọi cuồng vọng phù du của cuộc sống quá khứ cùng những sự hư ảo của một cõi đời tội lỗi, xa vắng Chúa. Danh vọng, sự nghiệp, tiền của không còn quan hệ nữa. Tôi thấy không khó vâng lời theo Chúa phán: Đừng vì sự sống mình mà lo đồ ăn uống, cũng đừng vì thân thể mà lo đồ mặc……Cha trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi. Nhưng trước hết hãy tìm Nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ ban cho thêm các người mọi điều ấy nữa…… Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay chăm sóc anh em! Tôi sực nhớ một câu Kinh Thánh, như một sự thật chói sáng mà chính bản thân tôi được kinh nghiệm: Vậy, ai ở trong Chúa Cứu Thế, chính là người được tái tạo; những việc cũ đã qua đi, này, mọi sự đều trở nên mới (II Cô-rinh-tô 5:17).
    Hội Thánh của Chúa Cứu Thế Giê-xu 
    Nhờ ân sủng của Đức Chúa Trời, nay tôi đã là tín đồ Chúa Giê-xu, vậy tôi phải gia nhập giáo hội nào?
    Nói cách chung, nhiều người theo đạo Tin Lành hay Công Giáo là vì cha mẹ theo Tin Lành hay Công Giáo, và họ chỉ thừa nhận tôn giáo của gia đình. Riêng phần tôi không thể theo cách tự nhiên như vậy. Tôi phải lựa chọn, và sự lựa chọn này không dễ dàng như người ta thường tưởng. Vấn đề cứu rỗi linh hồn quá ư quan trọng nên thận trọng đến mấy cũng vẫn chưa đủ. Không nhớ tôi đã đọc bao nhiêu sách thần học để phân biệt các điểm dị đồng giữa các giáo hội, đã bị bao nhiêu cơn nhức đầu và chịu bao nhiêu đêm mất ngủ suốt những tháng xao xuyến trong tâm hồn đó. Đêm nào tôi cũng cầu nguyện Đức Chúa Trời rằng: “ôi, lạy Cha trên trời, xin Chúa mở trí khôn cho con và ban ánh sáng chiếu rọi cho con nhận biết đường lối Chúa và phân biệt hội thánh của Chúa để con có thể theo Chúa cách vững vàng và an ninh trọn vẹn. Lạy Đức Chúa Trời, xin Chúa giúp con, vì con không thể tự mình quyết định được.”
    Cuối cùng lời cầu nguyện của tôi đã được Chúa nhậm. Biết trước trước mỗi thắc mắc của tôi, Chúa Giê-xu đã giải đáp cách rõ rệt trong Kinh Thánh, một lời giải đáp trước kia tôi đọc qua nhiều lần, nhưng chưa nhận thấy hết ý nghĩa sâu sắc và linh động: Ta là Đường Đi, Chân Lý và Sự Sống, chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha (Giăng 14:6).
    Tôi chợt thấy rằng các giáo hội dầu mang danh hiệu gì – Công-giáo, Anh-giáo, Giáo-hội Luther hoặc Tin Lành – cũng đều do loài người thiết lập. Các giáo hội ấy có thể sao lầm hay không, tốt hay xấu, chỉ huy khéo hay tổ chức vụng, và do đó làm hài lòng ta hay khiến ta thất vọng. Nhưng hội thánh duy nhất không thể lừa dối hi vọng của tôi chính là hội thánh Chúa Cứu Thế Giê-xu, sự dạy dỗ duy nhất giữ tôi khỏi lạc đường chính là sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Mỗi tín đồ có bổn phận đọc Kinh Thánh hằng ngày (Giô. 1:8; Thi-thiên 119:67; Cô-lô-se 3:16), vì Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời, và người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, nhưng nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 4:4). Đời sống theo Chúa là một cuộc tăng trưởng không ngừng, một cuộc nẩy nở liên tục; đời sống ấy cần các món ăn bổ dưỡng tâm linh mà ta được tự do thưởng thức trong Kinh Thánh. Hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo hầu cho anh em nhờ đó lớn lên (I Phi-e-rơ 2:2). Vì thế ta cần phải đọc, nghiên cứu, suy gẫm và học thuộc lòng Kinh Thánh. Sứ đồ Giăng đã viết: Phước cho kẻ đọc cùng những kẻ nghe lời tiên tri này, và giữ theo điều đã viết ra đây; vì thì giờ đã gần rồi.
    SUU TAM


    Tôi Đã Chọn...

    Posted at  10/29/2019 05:22:00 CH  |  in  Lời Làm Chứng  |  Read More»

    Kết quả hình ảnh cho Tôi Đã Chọn


    Tôi chống Cơ-đốc-giáo
    Gia đình tôi thật ra không thực hành một tôn giáo nào. Cha tôi theo Nho-giáo, nhưng có khuynh hướng tự do. Mẹ tôi theo Phật-giáo như trăm nghìn đồng bào khác, thỉnh thoảng đi chùa chiền lễ bái ngày rằm và mùng một, và ăn chay. 
    Riêng tôi, tôi chống mọi thứ tôn giáo; đối với tôi, tôn giáo chỉ là mê tín dị đoan, dành riêng cho hạng đàn bà quê mùa, mù chữ, dốt nát.
    Đến bậc trung học, tôi được cha mẹ gởi vào một trường tư thục Công-giáo La-mã ở Huế, không phải vì có lòng mộ đạo, nhưng chỉ vì chúng tôi không tìm được trường nào khác ở vùng ấy. Ngoài những môn học thường lệ, học sinh còn phải học giáo lý cương yếu và đọc kinh trước mỗi giờ học.
    Như tất cả các học sinh trong trường, tôi quì gối đọc kinh, hoặc giả bộ đọc, cố ra vẻ trang nghiêm sùng kính nhiệt thành. Nhưng trong thâm tâm tôi ghét mọi điều ấy. Như tôi đã nói, trên nguyên tắc, tôi chống mọi thứ tôn giáo. Nhưng tôi ghét Công-giáo hoặc Cơ-đốc giáo nhất, lúc bấy giờ tôi lầm tưởng hai danh từ này đồng nghĩa.
    Là một người yêu nước nhiệt cuồng, nên khi các bạn học mãi vui chơi ngoài phố, tôi say sưa đọc lén đủ thứ tác phẩm cách mạng. Dạo ấy các nhóm cách mạng bí mật mọc lên như nấm, nhằm mục đích đánh đuổi thực dân Pháp và giành lại quyền độc lập cho xứ sở.
    Đối với tôi Cơ-đốc-giáo hoàn toàn do thực dân Pháp phát minh, cốt ru ngủ dân ta hầu dễ bề bóc lột và thống trị nước ta mãi mãi; các nhà truyền giáo chỉ là một đội quân tiên phong đi mê hoặc dân chúng và dọn đường cho đạo quân xâm lăng.
    Từ tận đáy lòng, tôi hoàn toàn đồng ý với Karl Marx rằng: “Tôn giáo là thuốc phiện của dân chúng.” Vì thế, khi ra khỏi trường trung học ấy, tôi càng chống nghịch Cơ-đốc-giáo hơn trước.
    Đi tìm Chân lý
    Sau cuộc thế chiến thứ hai, tôi qua Âu Châu. Cuối năm 1954, tôi lâm bệnh, phải nằm điều trị tại một bệnh viện ở Haute-Savoie (Pháp). Suốt hai năm nằm trong bệnh viện tĩnh mịch, tôi có đủ thì giờ nghĩ ngợi, suy tư. Tôi mơ hồ nhận thấy rằng mang bệnh tật giữa lúc bước vào chỗ rẽ quan trọng trên đường sự nghiệp thật là một thứ hình phạt do một Đấng cao cả đã bất mãn với tôi, với nếp sống vô tư và tội lỗi của tôi. Phải chăng đây chính là triệu chứng báo hiệu một hiểm họa chết mất đang chờ đợi tôi nếu tôi cứ tiếp tục sống theo nếp sống cũ? Từng loạt những câu hỏi cổ điển mà con người tự hỏi từ thuở khai thiên lập địa bắt đầu dày vò tâm trí tôi: “Ta từ đâu đến? Ta làm chi ở đời này? Rồi ta sẽ đi đâu?” Đang khi chưa tìm được lời giải đáp, thì cuộc đời của tôi chỉ là một câu đố, và tôi không thể nào yên tâm được. Vốn có óc hoài nghi, tôi thích đặt câu hỏi về mọi sự và nghi ngờ mọi sự, vì tôi cho rằng hoài nghi là một dấu hiệu tri thức hơn người. Được hấp thụ học vấn Âu Tây, được tiếp xúc với nền văn hóa của Pháp, với óc trào lộng của Voltaire, với óc hoài nghi của Descartes, với luận điệu “Que Sais-je?” của Montaigne, tôi không dễ gì giải quyết những vấn đề thắc mắc ấy. Lo lắng băn khoăn chỉ là bản tính của con người, vì con người vốn hay suy tưởng. Trong không gian và thời gian, con người bị vũ trụ bao la chế ngự và đè bẹp; tuy nhiên, con người vẫn nuôi cao vọng thấu triệt vũ trụ. Khoa học đã thỏa mãn phần nào cao vọng ấy; khoa học đã giúp con người nhận thấy rằng vũ trụ có trật tự, thống nhất và dường như đang hướng về những mục tiêu nào đó. Nhưng làm sao giải nghĩa những sự kiện ấy nếu không nhìn nhận có Đấng Tạo Hóa?
    Tôi bắt đầu hỏi: Thượng Đế thực hữu hay không? Hay nói đúng hơn, lý trí của tôi, do trực giác thúc đẩy, biết trước chỉ có thể chọn một trong hai lẽ vô cùng quan trọng; hoặc thừa nhận có Thượng Đế, hoặc thừa nhận một sự phi lý hoàn toàn. Không có Thượng Đế mọi sự đều phi lý, không sao giải thích được, và cuộc đời – như đại văn hào Shakespeare đã viết trong bi kịch Macbeth – chỉ là “một truyện do anh ngốc kể, đầy dẫy tiếng ồn ào và giận dữ mà chẳng có nghĩa lý gì.”
    Tạo vật chứng minh rằng nguyên thủy có Đấng Tạo Hóa. Đạo đức và trí tuệ của con người làm chứng rằng con người tất phải do một Đấng Tạo Hóa đạo đức và thông sáng tuyệt vời sinh thành. Thật đúng như một câu Kinh Thánh mà tôi đọc thấy sau này: “Các tầng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời; bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm” (Thi-thiên 19:1). Phương pháp loại suy liên tục để suy luận về Thượng Đế ấy chính là phương pháp trí năng, đi từ cái đã biết mà suy ra cái chưa biết.
    Một phương pháp tri thức khác, thuộc phạm vi luân lý, khởi đi từ sự phân biệt Thiện và Ác. Khoa học đã tìm thấy trật tự của vũ trụ. Như thế sao lại không thể chấp nhận một trật tự trong cõi đạo đức? Một trật tự đạo đức mà Antigone, một nhân vật của Sophocle, đã công bố những định luật vẫn khắc sâu trong tâm khảm và lương tâm con người. Theo trật tự đạo đức ấy Thiện phải thắng Ác, phải đánh bại mọi cường lực, bạo tàn của Ác, của bất công, của đau khổ, của sự chết – một việc không thể nào thực hiện trong vũ trụ và nhân sinh hiện tại. Như thế, sao ta lại không thể tin rằng có một Đấng cao cả luôn luôn chăm chú theo dõi việc lành của người thiện, việc dữ của kẻ ác để rồi một ngày kia tái lập trật tự đạo đức và thưởng thiện phạt ác phân minh? Chả thế mà con người khi đứng trước nanh vuốt của bất công, đau khổ và tử thần, đã tìm được nguồn an ủi nơi Thượng Đế và do đó đã đặt lòng tin nơi một lẽ công bình, thanh liêm khiết bạch, cao siêu tuyệt đối. Chính vì thế mà hiền triết Socrate đã tuyên bố không hề sợ chết – mặc dầu ông bị bức phải uống thuốc độc chết cách oan uổng – chỉ vì ông tin rằng bên kia cõi chết còn có một “điều gì dành sẵn cho người thiện, tuyệt hảo hơn điều dành cho kẻ ác.” (Platon, Phédon 63c).
    Tôi tiến trên con đường nhận biết Đức Chúa Trời – nhưng đây mới chỉ là một nhận thức mơ hồ, một khái niệm, không hơn không kém. Ý niệm về Đức Chúa Trời ở mỗi người mỗi khác: dường như không có mối liên quan nào giữa Thượng Đế của người Démangs ở Mã-lai; Ngọc-hoàng, Đấng chí tôn, Thượng Đế của phái Vệ-đà ở Ấn-độ; Thượng Đế của Aristote, của Spinoza và Đức Chúa Trời của Cơ-đốc-giáo. Thượng Đế của tôi lúc bấy giờ còn là “Đức Chúa Trời của các nhà triết học và bác học” – danh từ Pascal đã dùng để đối chiếu với “Đức Chúa Trời của Chúa Cứu Thế Giê-xu.”…….Thật ra tôi cố ý gạt bỏ Cơ-đốc-giáo ra ngoài suy luận, vì tôi không bao giờ nghĩ rằng Cơ-đốc-giáo có thể đem lại câu giải đáp mà tôi đang tìm kiếm.
    Trong khi tìm kiếm chân lý, tôi không quên tham khảo các tôn giáo của tổ tiên. Tôi gia công nghiên cứu kỹ càng Nho-giáo và Phật-giáo, hai hệ thống tôn giáo chính của nước nhà, và lần này, với một một tinh thần không thiên kiến và một tấm lòng cởi mở. Nhưng dầu tôi đã tận tâm nghiên cứu, Nho-giáo và Phật-giáo vẫn không làm thỏa mãn được tấm lòng khát khao chân lý của tôi.
    Đức Chúa Trời của Chúa Cứu Thế Giê-xu
    Giữa khi tâm trí tôi đang hoang man rối loạn, một hôm, một nhà truyền bá Phúc Âm ghé thăm tôi. Ông đến vào lúc tôi đang sửa soạn đi nghỉ theo lời bác sĩ căn dặn. Tôi miễn cưỡng tiếp ông mặc dầu gần như muốn đuổi khéo ông ra cửa. Hai bên chỉ gặp nhau ở một điểm – ông ta đã viện lẽ ấy để bước vào phòng tôi – là hai chúng tôi cùng nói được tiếng Anh. Thế là chúng tôi dùng Anh-ngữ đàm đạo về Cơ-đốc-giáo.
    Tôi nhẹ cả người khi ông đứng lên từ giả, nhưng trước khi đi, ông còn tặng tôi một quyển Kinh Thánh Tân Ước và khuyên tôi đọc. Theo phép lịch sự, tôi nhận quyển sách mặc dầu chẳng muốn đọc tí nào. Chờ ông đi khỏi, tôi bỏ quyển sách bìa xanh, cỡ bỏ túi, vào ngăn bàn. Ác cảm từ thuở niên thiếu đối với Cơ-đốc-giáo đã dịu bớt từ lâu, nhưng tôi vẫn còn nhiều nghi kỵ. Tôi đã từng được dịp – nhất là những năm lưu trú ở Anh quốc – bắt gặp một quyển Kinh Thánh hoặc các sách Cơ-đốc-giáo khác, nhưng chẳng bao giờ tôi tọc mạch mó tay đến loại văn chương quá buồn tẻ đó chỉ dành cho riêng một hạng người đặc biệt, như các linh mục và mục sư.
    Tuy nhiên, từ khi quyển sách nhỏ ấy nằm trong ngăn bàn, mỗi khi kéo ngăn ra, mắt tôi lại phải nhìn thấy nó, tay lại đụng đến nó. Ác cảm cố hữu của tôi lần lần tiêu tan và tôi bắt đầu mở sách, liếc mắt đọc qua. Tôi chợt có ý muốn nghiên cứu quyển sách ấy để tìm hiểu những điển tích Kinh Thánh nhan nhản trong văn chương Anh Pháp. Tôi nhận thấy rằng nếu không đọc qua Kinh Thánh, là quyển sách căn bản của một nền văn hóa đang chi phối hàng nghìn triệu người thì kiến thức tôi còn nhiều khuyết điểm. Mặt khác, nhà truyền đạo vẫn kiên nhẫn đến thăm tôi đều đều để bàn luận về Cơ-đốc-giáo, lẽ nào tôi cứ chịu đóng vai câm, điếc trước mặt ông ta.
    Tôi phải cố gắng mãi mới có thể bắt đầu nghiên cứu Kinh Thánh Tân Ước cách chín chắn. Dần dần tôi càng say mê đọc quyển sách nhỏ ấy như một quyển tiểu thuyết mê lòng nhất. Tôi bỏ cả thì giờ, thu hết tâm trí vào việc nghiên cứu và càng đọc, càng muốn đọc thêm. Tôi gởi mua một bộ Kinh Thánh toàn thư; ít lâu sao, tôi nhận được quyển Kinh Thánh có tham chiếu do tiến sĩ scofield chú giải. Tôi đọc suốt từ đầu đến cuối, và gởi mua thêm nhiều tác phẩm luận về các phương diện khác nhau của đời sống Chúa Giê-xu và lời giáo huấn của ngài. Tôi cảm thấy càng khao khát biết thêm về “Đức Chúa Trời của Chúa Cứu thế Giê-xu,” một cơn khao khát chưa hề có trong đời tôi.
    Cố nhiên lúc ấy tôi chưa hiểu biết mọi điều trong Kinh Thánh – đến bây giờ tôi cũng không dám nhận là đã thấu triệt đâu. Nhưng với lòng khiêm tốn, tôi nhận rằng với trí tuệ hữu hạn của con người, tôi không dám mong hiểu thấu tức khắc toàn thể chân lý thần diệu. Tôi đồng ý với Descartes và Spinoza, là hai triết gia đã chủ trương rằng mọi khái niệm rõ rệt của tâm hồn chắc chắn là chân xác, rằng lương tâm phải là tiêu chuẩn duy nhất của tín ngưỡng. Từ nghìn xưa, trí óc loài người đã bị dày vò và tuyệt vọng khi đi tìm lời giải đáp những câu hỏi quan trọng: “Khôn ngoan ở đâu? Chân lý là gì?” Pyrrhon, một đại triết gia hoài nghi Hi-lạp, từng theo gót đạo quân viễn chinh của Alexandre sang Ấn-độ và từng phiêu lưu trong hoài nghi phổ quát, đã phải tuyệt vọng vì không thể tìm ra chân lý. Triết gia Ludwig Feuerbach, người đã bỏ thần học quay sang nghiên cứu triết học, đến giờ hấp hối, tâm trí bị dày vò rối loạn cực điểm trong một nỗi thống khổ sâu xa, đã phải thú nhận rằng cuộc tìm tòi của mình là vô hiệu quả, và trước khi tắt hơi ông rên rĩ: “Chân lý ơi, chân lý hỡi! Ngươi ở đâu?”
    Triết học không thể giải quyết vấn đề nầy cách ổn thỏa. Vì con người – con người thiên nhiên – bị mù quáng. Con người sinh ra trong xác thịt, và chính vì bản chất xác thịt, nên không thể nào hiểu nổi những việc siêu nhiên và thiêng liêng, là những điều mắt chư thấy, tai chưa nghe và lòng người chưa hề nghĩ đến (I cô-rinh-tô 2:9). Trí năng của con người tự nó không thể tìm ra chân lý thiêng liêng, đúng như lời tôi đọc trong Thánh Kinh sau này: Đức Chúa Trời phán: Ý tưởng các ngươi chẳng phải là ý tưởng ta; đường lối Ta chẳng phải là đường lối các ngươi. Vì các tầng trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối Ta cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu. Con người thiên nhiên dẫu tài hoa, đạo đức, học thức, thông minh đến đâu, cũng không thể nào nhận thức được chân lý thiêng liêng, vì xác thịt thù nghịch với Đức Chúa Trời (Rô-ma 8:7). Đúng như lời Chúa Giê-xu đã phán: Lạy Chúa của trời đất, tôi tạ ơn Cha vì Ngài đã giấu điều này với người khôn ngoan thông sáng, mà tỏ cho con trẻ hay (Ma-thi-ơ 11:25). Đối với người thiên nhiên, những điều thuộc linh có vẻ vô nghĩa điên dại.
    Tâm trí con người cần phải đổi mới trước khi nhận thức chân lý, bước đầu tiên cho sự đổi mới là tiếp nhận Đức Chúa Trời, nhìn nhận Ngài thực hữu. Lúc ấy Ngài mới ban cho ta khôn ngoan để hiểi biết những điều mầu nhiệm của Ngài.
    Tin quyết như Aristote rằng: “Cách học gảy thụ cầm (harpe) tốt nhất là gảy ngay, ” Tôi quyết định nhìn nhật Đức Chúa Trời là một thật sự của đời sống hằng ngày và đầu phục Ngài vô điều kiện. Tôi nhìn nhận rằng muốn tìm thấy chân lý, trước hết phải cởi bỏ những định kiến, những quan niệm mà loài người thường cho là xác thực. Tôi muốn tin trong lòng, chứ không phải nhận bằng trí óc.
    Với tâm trạng ấy, tôi đọc lại Kinh Thánh hằng ngày, tĩnh tâm đọc chậm chạp từng câu một, lúc nào cũng cố lắng nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời. Tôi đã tới mức ganh đua với Pascal mà cầu nguyện bằng Kinh Thánh hơn là đọc Kinh Thánh. Chẳúng bao lâu, ánh sáng tràn ngập tâm trí tôi; tôi được liên lạc với Chúa Giê-xu và những mối nghi ngờ của tôi lần lượt tiêu tan hết. Dường như nhiều “vảy cá” đã rơi khỏi mắt tôi, và những điều trước kia tôi cho là rất khó hiểu, thì bây giờ lại hóa ra giản dị, sáng sủa. Vì Đức Chúa Trời làm được mọi sự, nên tôi có thể tin nhận toàn bộ Kinh Thánh, không chút e dè, cả đến những điểm mới xem có vẻ như mâu thuẫn, vì chính Chúa Cứu Thế Giê-xu đã dứt khoát khiến cho Kinh Thánh đầy ý nghĩa và đủ bằng chứng xác thực. Trong Kinh Thánh quả có “đủ ánh sáng để rọi đường cho những người nào muốn được soi sáng” như Pascal đã nói.
    Khi đọc Kinh Thánh, tôi hoàn toàn nhận biết tình trạng khốn nạn, không xứng đáng của mình, và hiểu rằng tôi ô uế, hư hoại như mọi người thiên nhiên khác. Tội lỗi đã đào một hố sâu giữa Đức Chúa Trời và tôi, và khiến Ngài quay mặt không nghe tiếng tôi (Ê-sai 59:2). Vâng, hết thảy loài người đều phạm tội – tôi không được ngoại trừ – và tiền công của tội lỗi là sự chết, là lửa đời đời trong vực sâu, địa ngục (Rô-ma 6:23). Nhưng Đức Chúa Trời yêu thương nhân loại đến nỗi đã ban Con Một của Ngài. Chúa Giê-xu đã xuống mặt đất khốn nạn này để chịu đau đớn và chịu chết thế cho ta, ngõ hầu huyết Ngài đổ ra xóa sạch tội lỗi loài người. Nhờ đó, khi ta tin đến Chúa Giê-xu, ta được phục hòa với Đức Chúa Trời, được thừa nhận là con cái Ngài. Kinh Thánh nhiều lần công bố rằng sở dĩ ta được cứu rỗi không phải nhờ việc lành, hi sinh hoặc công đức riêng, nhưng chính là nhờ lòng yêu thương, nhân từ của Đức Chúa Trời. Ấy là nhờ ân sủng, bởi đức tin mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình (Ê-phê-sô 2:8-9).
    Sự cứu rỗi là một tặng phẩm, một ân tứ vô điều kiện của Đức Chúa Trời; Không thể mua được hay trả giá bất cứ cách nào. Không thể nào được cứu rỗi do việc lành, cầu kinh, thánh lễ, kiêng ăn hoặc ép xác khổ tu (Cô-lô-se 2:20-23; I Ti-mô-thê 4:1-5), hoặc bởi một nghi lễ tôn giáo nào. Ta chỉ cần tiếp nhận và quý chuộng ân tứ ấy cùng kính yêu Đấng đã thi ân. Tôi vốn là một tội nhân, không thể tự cứu lấy mình; tôi cần Chúa cứu, ngoài Chúa Giê-xu không ai cứu được tôi. Ngài đã đổ huyết trên thập tự giá để tẩy sạch tội lỗi tôi (I Giăng 1:7), và hòa giải giữa Đức Chúa Trời và tôi. Ngài đã chịu chết vì tội lỗi tôi, để tôi được sự sống mới, sự sống đời đời. Chỉ nhờ Chúa Giê-xu, chúng ta mới biết được Đức Chúa Trời, không nhờ Ngài chẳng ai được đến cùng Đức Chúa Cha (Giăng 14:6).
    Tôi đã tiếp nhận Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế của chính tôi.
    Tái Sinh
    Sự cứu rỗi là một việc riêng giữa ta và Chúa Cứu Thế. Tin Chúa Cứu Thế không phải chỉ có nghĩa là tin một vài điều liên quan đến Ngài. Chỉ lấy trí óc mà tán đồng các chân lý của Phúc Âm thì chưa đủ; lắm tín đồ chính thức đã trung thành vâng giữ luật pháp Chúa Cứu Thế, nhưng họ chỉ có một tín ngưỡng trong trí óc, chứ chưa có đức tin thật. Muốn vào Nước Đức Chúa Trời, ta phải trở thành đơn sơ như con trẻ – nói cách khác, ta cần một tấm lòng đơn thuần hơn là sử dụng thái quá óc phê bình và trí năng duy lý; ta cần phải tin cậy hoàn toàn tiếng phán của Đức Chúa Trời như con trẻ tin cậy cha. Giữ đúng các nghi lễ của giáo hội cũng chưa đủ để thay đổi tấm lòng xấu xa và tội lỗi của con người. Ngày xưa, thuật sĩ Si-môn đã theo đạo và chịu báp-tem, nhưng vẫn không có lòng ngay thẳng trước mặt Đức Chúa Trời, vì chưa thật lòng tin nhận Chúa (Công-vụ 8:13, 21-24); trường hợp ấy đủ soi sáng cho ta.
    Muốn trở thành tín đồ Chúa Cứu Thế, ta phải khiêm cung đặt hết lòng tin nơi Chúa hằng sống. Trước hết ta phải ăn năn và đầu phục Chúa Cứu Thế cách hoàn toàn, tuyệt đối không chút dè dặt, cùng cầu xin Ngài cứu vớt ta, tha thứ tội lỗi ta. Khi một người hoàn toàn tin cậy Chúa, tội lỗi liền được tha và Chúa Cứu Thế ngự vào lòng người ấy. Cả đời sống người ấy được đổi mới, một lối sinh hoạt mới mẻ bắt đầu từ đây. Đối với người tín đồ chân thật, Đức Chúa Trời luôn luôn hiện hữu. Ta biết Chúa, yêu Chúa, thờ phượng Chúa. Chúa là nguồn vui thỏa của ta. Làm theo ý Ngài là mục đích chính của đời ta. Nhiều tư tưởng mới mẻ thành hình trong tâm trí ta. Ta đánh giá mọi sự theo một giá biểu mới: ta yêu nhiều điều trước kia ta ghét, nhiều điều trước kia ta mến chuộng nhắc lại trở thành vô vị, lạt lẽo. Nhiều qui tắc sinh hoạt mới mẻ, nhiều cớ tích hành động cao thượng và nhiều ước vọng tân kỳ đã thành hình trong ta. Ta có những sở thích thuộc linh mới mẻ hướng về những giá trị cao cả, thanh khiết và bất diệt. Chúa ban cho ta một quyền năng siêu việt để chế ngự tội lỗi, vì Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho ai bị cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho anh em ra khỏi, để anh em có thể chịu được (I Cô-rinh-tô 10:13). Bây giờ ta thích cầu nguyện – sự cầu nguyện thật chính là hầu chuyện và tương giao với Đức Chúa Trời. Ta yêu anh em trong Chúa và tìm cách gần gũi họ.
    Những thay đổi ấy chứng tỏ rằng ta vượt khỏi sự chết mà đến sự sống, rằng ta đã được sự sống mới. Tâm linh chết và bất động mà ta thừa hưởng từ lúc sinh ra nay được Chúa Thánh Linh làm cho sống, thế là ta được tái sinh. Sự tái sinh thật cần thiết, vì chưa tái sinh người thiên nhiên không thể nào đẹp lòng Chúa hay vâng lời Ngài, cũng không thể nào hiểu biết Ngài được. Ni-cơ-đem là một nhà trí thức thông thạo các vấn đề trong Kinh Thánh, cũng là một người sùng đạo, đã từng lãnh đạo dân Do-thái ngày xưa. Nhưng Chúa Giê-xu đã phán với Ni-cơ-đem: Nếu một người chẳng sinh lại (tái sinh), thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời…. Các ngươi phải sinh lại (Giăng 3:3-7). Ta phải được Thánh Linh Đức Chúa Trời sinh lại, mới được nhập vào gia đình Ngài, mới được lãnh sự sống đời đời, mới có thể nối lại sự tương giao mật thiết với Ngài, một sự tương giao đã gián đoạn từ khi A-đam, thủy tổ loài người, sa ngã.
    Kinh nghiệm tái sinh không phải là những mơ mộng viễn vông, nhưng là một sự thật hiển nhiên mà cả tâm thần ta đều cả biết. Ai đã giao phó đời mình vào tay Chúa Giê-xu đều có kinh nghiệm ấy. Đã đành không phải ngay tức khắc ta có thể kinh nghiệm một sự đổi mới hoàn toàn; trong trường hợp của tôi, sự thay đổi được thực hiện lần lần, nhưng hằng ngày tôi có thể cảm biết mình đang đổi mới. Trên hết mọi sự, tôi mong ước rũ sạch mọi cuồng vọng phù du của cuộc sống quá khứ cùng những sự hư ảo của một cõi đời tội lỗi, xa vắng Chúa. Danh vọng, sự nghiệp, tiền của không còn quan hệ nữa. Tôi thấy không khó vâng lời theo Chúa phán: Đừng vì sự sống mình mà lo đồ ăn uống, cũng đừng vì thân thể mà lo đồ mặc……Cha trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi. Nhưng trước hết hãy tìm Nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ ban cho thêm các người mọi điều ấy nữa…… Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay chăm sóc anh em! Tôi sực nhớ một câu Kinh Thánh, như một sự thật chói sáng mà chính bản thân tôi được kinh nghiệm: Vậy, ai ở trong Chúa Cứu Thế, chính là người được tái tạo; những việc cũ đã qua đi, này, mọi sự đều trở nên mới (II Cô-rinh-tô 5:17).
    Hội Thánh của Chúa Cứu Thế Giê-xu 
    Nhờ ân sủng của Đức Chúa Trời, nay tôi đã là tín đồ Chúa Giê-xu, vậy tôi phải gia nhập giáo hội nào?
    Nói cách chung, nhiều người theo đạo Tin Lành hay Công Giáo là vì cha mẹ theo Tin Lành hay Công Giáo, và họ chỉ thừa nhận tôn giáo của gia đình. Riêng phần tôi không thể theo cách tự nhiên như vậy. Tôi phải lựa chọn, và sự lựa chọn này không dễ dàng như người ta thường tưởng. Vấn đề cứu rỗi linh hồn quá ư quan trọng nên thận trọng đến mấy cũng vẫn chưa đủ. Không nhớ tôi đã đọc bao nhiêu sách thần học để phân biệt các điểm dị đồng giữa các giáo hội, đã bị bao nhiêu cơn nhức đầu và chịu bao nhiêu đêm mất ngủ suốt những tháng xao xuyến trong tâm hồn đó. Đêm nào tôi cũng cầu nguyện Đức Chúa Trời rằng: “ôi, lạy Cha trên trời, xin Chúa mở trí khôn cho con và ban ánh sáng chiếu rọi cho con nhận biết đường lối Chúa và phân biệt hội thánh của Chúa để con có thể theo Chúa cách vững vàng và an ninh trọn vẹn. Lạy Đức Chúa Trời, xin Chúa giúp con, vì con không thể tự mình quyết định được.”
    Cuối cùng lời cầu nguyện của tôi đã được Chúa nhậm. Biết trước trước mỗi thắc mắc của tôi, Chúa Giê-xu đã giải đáp cách rõ rệt trong Kinh Thánh, một lời giải đáp trước kia tôi đọc qua nhiều lần, nhưng chưa nhận thấy hết ý nghĩa sâu sắc và linh động: Ta là Đường Đi, Chân Lý và Sự Sống, chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha (Giăng 14:6).
    Tôi chợt thấy rằng các giáo hội dầu mang danh hiệu gì – Công-giáo, Anh-giáo, Giáo-hội Luther hoặc Tin Lành – cũng đều do loài người thiết lập. Các giáo hội ấy có thể sao lầm hay không, tốt hay xấu, chỉ huy khéo hay tổ chức vụng, và do đó làm hài lòng ta hay khiến ta thất vọng. Nhưng hội thánh duy nhất không thể lừa dối hi vọng của tôi chính là hội thánh Chúa Cứu Thế Giê-xu, sự dạy dỗ duy nhất giữ tôi khỏi lạc đường chính là sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Mỗi tín đồ có bổn phận đọc Kinh Thánh hằng ngày (Giô. 1:8; Thi-thiên 119:67; Cô-lô-se 3:16), vì Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời, và người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, nhưng nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 4:4). Đời sống theo Chúa là một cuộc tăng trưởng không ngừng, một cuộc nẩy nở liên tục; đời sống ấy cần các món ăn bổ dưỡng tâm linh mà ta được tự do thưởng thức trong Kinh Thánh. Hãy ham thích sữa thiêng liêng của Đạo hầu cho anh em nhờ đó lớn lên (I Phi-e-rơ 2:2). Vì thế ta cần phải đọc, nghiên cứu, suy gẫm và học thuộc lòng Kinh Thánh. Sứ đồ Giăng đã viết: Phước cho kẻ đọc cùng những kẻ nghe lời tiên tri này, và giữ theo điều đã viết ra đây; vì thì giờ đã gần rồi.
    SUU TAM


    Những Bài Viết Liên Quan

    CNTTLS...
    About-Donate-Contact-Sitemap
    Copyright © 2017 TRỞ THÀNH NGUỒN PHƯỚC. Jesus Love You .
    Proudly Powered by Quang Vo.
    back to top