Posted at 10/16/2019 03:17:00 CH |  in
Bài Giảng
(Dịch từ quyển The
Preacher's Outline & Sermon Bible, thuộc Leadership Ministries Worldwide
PO Box 21310, Chattanooga, TN 37424-0310, USA).
Mathiơ 1:1-17:
1Gia phổ Đức Chúa
Jêsus Christ, con cháu Đa-vít và con cháu Áp-ra-ham. 2Áp-ra-ham sanh Y-sác;
Y-sác sanh Gia-cốp; Gia-cốp sanh Giu-đa và anh em người. 3Giu-đa
bởi Tha-ma sanh Pha-rê và Xa-ra. Pha-rê sanh Ếch-rôm; Ếch-rôm sanh A-ram;
4A-ram sanh A-mi-na-đáp; A-mi-na-đáp sanh Na-ách-son; Na-ách-son sanh Sanh-môn.
5Sanh-môn bởi Ra-háp sanh Bô-ô. Bô-ô bởi Ru-tơ sanh Ô-bết. Ô-bết sanh Gie-sê;
6Gie-sê sanh vua Đa-vít. Đa-vít bởi vợ của U-ri sanh Sa-lô-môn. 7Sa-lô-môn sanh
Rô-bô-am; Rô-bô-am sanh A-bi-gia; A-bi-gia sanh A-sa; 8A-sa sanh Giô-sa-phát;
Giô-sa-phát sanh Giô-ram; Giô-ram sanh Ô-xia. 9Ô-xia sanh Giô-tam;
Giô-tam sanh A-cha; A-cha sanh Ê-xê-chia. 10Ê-xê-chia
sanh Ma-na-sê; Ma-na-sê sanh A-môn; A-môn sanh Giô-si-a. 11Giô-si-a đang khi bị
đày qua nước Ba-by-lôn sanh Giê-chô-nia và anh em người. 12Khi đã bị đày qua
nước Ba-by-lôn, thì Giê-chô-nia sanh Sa-la-thi-ên; Sa-la-thi-ên sanh
Xô-rô-ba-bên; 13Xô-rô-ba-bên sanh A-bi-út; A-bi-út sanh Ê-li-a-kim; Ê-li-a-kim
sanh A-xô. 14A-xô sanh Sa-đốc; Sa-đốc sanh A-chim; A-chim sanh Ê-li-út;
15Ê-li-út sanh Ê-lê-a-xa; Ê-lê-a-xa sanh Ma-than; Ma-than sanh Gia-cốp;
16Gia-cốp sanh Giô-sép là chồng Ma-ri; Ma-ri là người sanh Đức Chúa Jêsus, gọi
là Christ. 17Như vậy, từ Áp-ra-ham cho đến Đa-vít, hết thảy có mười bốn đời; từ
Đa-vít cho đến khi bị đày qua nước Ba-by-lôn, cũng có mười bốn đời; và từ khi
bị đày qua nước Ba-by-lôn cho đến Đấng Christ, lại cũng có mười bốn đời.
Bố Cục:
Mathiơ 1:1-17
I. SỰ RA ĐỜI VÀ THỜI THƠ ẤU CỦA CHÚA JÊSUS, ĐẤNG MÊSI,
1:1-2:23
A. Bảng gia phổ của Chúa Jêsus: Gốc Rễ, 1:1-17Xem: NC1
(đối chiếu Luca 3:23-28)
1 Bảng gia phổ chỉ ra Chúa Jêsus là người kế tự hợp pháp
(câu 1)
a. Đối với ngai vàng của David (câu 1a)
b. Đối với các ơn phước của Ápraham (câu 1b)
2 Bảng gia phổ khích lệ những tín đồ bị tan rãi khắp nơi
(câu 2)
3 Bảng gia phổ tượng trưng cho lòng thương xót vinh hiển
của Đức Chúa Trời (các câu 3-6)
a. Nơi người nữ ngoại bang, Tama (các câu 3-4)
b. Nơi người nữ ngoại bang, Raháp (câu 5a)
c. Nơi người nữ ngoại bang, Rutơ (câu 5b)
d. Nơi người đàn bà tội lỗi, Bátsêba (câu 6)
4 Bảng gia phổ tỏ ra ân điển của Đức Chúa Trời không thừa
tự được; ân điển ấy được ban ra theo ý muốn của Ngài (các câu 7-10)
5 Bảng gia phổ nhấn mạnh quyền phép của Đức Chúa Trời hay
giữ các lời hứa của Ngài (các câu 11-16)
a. Trong sự giải cứu dân sự Ngài ra khỏi thời kỳ hoạn nạn
(làm phu tù cho người Babylôn) (các câu 11-15)
b. Trong việc sai phái Đấng Christ, Đấng Mêsi (câu 16)Xem: NC2, Xem: NC3
6 Bảng gia phổ
tiêu biểu các thế hệ trong lịch sử thuộc linh (câu 17)
a.
Ápraham-David: Ra đời và phát triển (câu 17a)
b. David-Phu tù
Babylôn: Thoái hóa và làm nô lệ (câu 17b)
c. Babylôn-Đấng
Christ: Tự so và đắc thắng (câu 17c)
MATHIƠ: PHẦN I
I. SỰ RA ĐỜI VÀ THỜI
THƠ ẤU CỦA CHÚA JÊSUS, ĐẤNG MÊSI, 1:1-2:23
A. Bảng gia phổ
của Chúa Jêsus: Gốc Rễ, 1:1-17
(1:1-17) Phần giới thiệu
— Gia phổ — Đức Chúa Jêsus Christ, Gia phổ: gia phổ của Đức Chúa Jêsus Christ không phải
là cái nền trơ trụi cho việc giảng dạy đâu. Bảng gia phổ ấy rất phong phú cho
người nào chịu tìm kiếm gốc tích của Chúa Jêsus. (Xem chú thích — Luca 3:23).
1. Bảng gia phổ
chỉ ra Chúa Jêsus là người kế tự hợp pháp (các câu 1-2).
2. Bảng gia phổ
khích lệ những tín đồ bị tan rãi khắp nơi (câu 2).
3. Bảng gia phổ
tượng trưng cho lòng thương xót vinh hiển của Đức Chúa Trời (các câu 3-6)
4. Bảng gia phổ
tỏ ra ân điển của Đức Chúa Trời không thừa tự được; ân điển ấy được ban ra theo
ý muốn của Ngài (các câu 7-10).
5. Bảng gia phổ
nhấn mạnh quyền phép của Đức Chúa Trời hay giữ các lời hứa của Ngài (các câu
11-16).
6. Bảng gia phổ tiêu biểu các thế hệ trong lịch sử thuộc linh (câu 17).
NGHIÊN CỨU #1
(1:1-17) Gia phổ: có hai sự kiện quan trọng ở đây. Thứ nhứt, Luca lần theo phổ
hệ (gia phổ) của Mary, phổ hệ của mẹ Chúa Jêsus. Thứ hai, ông lần theo phổ hệ
của Mary ngược trở lại Ađam. Những điều ông làm cho thấy rằng Con của Đức Chúa
Trời hiển nhiên trở thành một con người. Chúa Jêsus là Đấng Mêsi được hứa cho.
Luca đang viết cho các dân Ngoại, họ đặt phần nhấn mạnh vào một Đức Chúa Trời
siêu việt, một Đức Chúa Trời ở đâu đó ngoài không gian, họ nghĩ Ngài đã bị dời
xa khỏi mọi vụ việc của con người. Luca phải chỉ ra Chúa Jêsus là một con
người, con người trọn vẹn. Ngài là một con người ra đời bởi một người nữ, đầy
đủ tình cảm, cảm xúc và từng ngày kinh nghiệm giống như bao người khác.
Bảng gia phổ của Mathiơ thì khác hẳn (Mathiơ 1:1). Mathiơ chủ yếu viết
cho người Do thái nào đặt phần nhấn mạnh vào phổ hệ thanh sạch. Một phổ hệ bất
khiết tước đi khỏi người Do thái lai lịch của mình, tước đi quyền được gọi là
một người Do thái; và thê thảm hơn, điều nầy có ý nói người ấy mất quyền được
gọi là con cái của Đức Chúa Trời. Để phấn đấu với nan đề nầy, Mathiơ lần theo
phổ hệ của Giôsép đi ngược lại qua Vua David và Ápraham, tổ phụ sáng lập ra dân
Israel. Ông làm vậy để chỉ ra Chúa Jêsus có quyền hợp pháp đối với ngai vàng
của David và với mọi lời hứa được lập với Ápraham. Điều nầy không có ý nói rằng
Chúa Jêsus là con theo phần xác của Giôsép, mà thay vì thế là con của Đức Chúa
Trời, Chúa Jêsus đã được sai phái vào trong gia đình của Giôsép. Bởi đó Ngài
trở thành người thừa tự hợp pháp của Giôsép (xem NC #3 —
Mathiơ 1:16; NC #2 — Giăng
8:23). Điều nầy có ý nói tới hai việc. Thứ nhứt, Chúa Jêsus về mặt
luật pháp là dòng dõi thanh sạch của dân Do thái. Ngài làm ứng nghiệm các lời
tiên tri trong Cựu Ước cho rằng Đấng Mêsi sẽ ra đời từ dân Do thái. Thứ hai, là
một người Do thái và là Con của Đức Chúa Trời, Chúa Jêsus có quyền hợp pháp
xưng nhận địa vị Mêsi. Ngài có quyền hợp pháp đối với ngai vàng của David và
với mọi lời hứa lập với Ápraham (xem NC #1 — Giăng
4:22; NC #1 — Rôma
4:1-25. Đối chiếu Sáng thế ký
12:1-3).
1. (1:1) Đức Chúa Jêsus
Christ, Gia phổ: gia phổ của Đức Chúa Jêsus Christ chỉ ra rằng Chúa Jêsus là
người kế tự hợp pháp ngai vàng của David. Bảng gia phổ (geneseơs) không
ghi ra để làm thoả mãn tánh tò mò của con người về gốc tích của Chúa Jêsus,
cũng không cung ứng cho các môn đồ Ngài một lý do để khoe khoang về các tổ phụ
của Ngài. Sâu xa hơn thế. Mathiơ lần theo gốc rễ của Đức Chúa Jêsus Christ có
trình tự để minh chứng rằng Ngài là Đấng Mêsi đã được hứa cho.
Đấng Mêsi cần phải là con của Ápraham và là con của David; nghĩa là, Ngài phải
là dòng dõi của cả hai.
1. Đức Chúa Trời ban cho Ápraham và dòng dõi ông (Đấng Mêsi) lời
hứa về các ơn phước cho cả thế gian (Sáng thế ký
12:1-3; Sáng thế ký
22:18. Xem chú thích — Giăng 1:23;
NC #1 — Giăng
4:22; chú thích — Giăng 8:54-59 để
thảo luận).
2. Đức Chúa Trời ban cho David và dòng dõi ông (Đấng Mêsi) lời
hứa cai trị đời đời (II Samuên 7:12; Thi thiên 39:3…; Thi thiên 132:11.
Xem chú thích — Luca 3:24-31;
chú thích — Giăng 1:23;
NC #3 — Giăng
1:45; NC #4 — Giăng
1:49 về các câu nói và sự ứng nghiệm).
Người Do thái tin tưởng các lời hứa nầy của Đức Chúa Trời. Vì lẽ đó, Mathiơ ghi
ra để minh chứng rằng Chúa Jêsus "được gọi là Đấng Christ" (Mathiơ 1:16) là
con được hứa của Ápraham và con được hứa của David (Mathiơ 1:1).
Hãy chú ý thể nào Chúa Jêsus thường được gọi là Con của David. (đối chiếu Mathiơ 12:23; 15:22; 20:30-31; 21:9, 15; Công Vụ các Sứ
Đồ 2:29-36; Rôma 1:3; II Timôthê 2:8; Khải huyền 22:16). Đây là tước hiệu và
là khái niệm phổ thông nói tới Đấng Mêsi. Hết thế hệ nầy đến thế hệ khác, người
Do thái ao ước và tìm kiếm đấng cứu tinh của Israel được hứa cho. Dân sự trông
mong Ngài là một vị tướng lãnh tài ba sẽ giải cứu và phục hưng xứ sở đến chỗ
cao trọng của nó; thực vậy, họ đã trông mong Ngài biến xứ họ thành trung tâm
quyền lực của thế gian. Dưới quyền của Đức Chúa Trời, Ngài sẽ chinh phục thế
gian và tập trung sự vinh hiển và oai nghi của chính mình Đức Chúa Trời tại
thành Jerusalem. Từ ngôi của Ngài, ngôi của David, Ngài sẽ giáng "lửa phán
xét của Đấng Mêsi" trên các dân các nước thế gian (xem NC #2 —
Mathiơ 1:18; NC #2—Mathiơ
3:11; chú thích — Mathiơ 11:1-6; chú thích — Mathiơ 11:2-3; NC #1—Mathiơ
11:5; NC #2 —
Mathiơ 11:6; chú thích — Mathiơ 12:16; chú thích — Mathiơ 22:42; chú thích — Luca 7:21-23. Khi để ý tới các chỗ
chú thích nầy sẽ thấy rõ những gì quan niệm của người Do thái nghĩ về Đấng
Mêsi). Nếu Mathiơ có thể
minh chứng gốc rễ của Chúa Jêsus ngược về với David và Ápraham, ông sẽ tỏ ra
con người dám nắm lấy những lời xưng nhận của Chúa Jêsus là Đấng Mêsi nghiêm
trọng là dường nào. (Xem chú thích — Mathiơ 1:18).
Tư tưởng 1. Người tin Chúa sẽ dự
phần vào các ơn phước của Ápraham và trong David được hứa cho sự trị vì đời
đời. (Xem
NC #1—Rôma
4:1-25).
“Vậy, người đã nhận
lấy dấu cắt bì, như dấu ấn của sự công bình mà người đã được bởi đức tin, khi
chưa chịu cắt bì; hầu cho làm cha hết thảy những kẻ tin mà không chịu cắt bì,
đặng họ được kể là công bình” (Rôma 4:11).
“Vậy nên, bởi đức tin
mà người ta trở nên kẻ ăn gia tài, hầu cho sự ấy được bởi ân điển, và cho lời
hứa được chắc chắn cho cả dòng dõi Áp-ra-ham, chẳng những cho dòng dõi dưới
quyền luật pháp, mà cũng cho dòng dõi có đức tin của Áp-ra-ham, là tổ phụ hết thảy
chúng ta” (Rôma 4:16).
“Ta đã lập giao ước cùng kẻ được chọn của ta, Ta đã thề cùng Đa-vít, kẻ tôi tớ
ta, mà rằng: Ta sẽ lập dòng dõi ngươi đến mãi mãi, Và dựng ngôi ngươi lên cho
vững bền đến đời đời” (Thi thiên 89:3-4).
“Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta;
quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng
Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an. Quyền
cai trị và sự bình an của Ngài cứ thêm mãi không thôi, ở trên ngôi Đa-vít và
trên nước Ngài, đặng làm cho nước bền vững, và lập lên trong sự chánh trực công
bình, từ nay cho đến đời đời. Thật, lòng sốt sắng của Đức Giê-hô-va vạn quân sẽ
làm nên sự ấy!” (Êsai 9:5-6).
“Xảy ra trong ngày đó, rễ Y-sai đứng lên làm cờ cho muôn dân, các nước đều tìm
đến Ngài, nơi an nghỉ của Ngài sẽ được vinh hiển” (Êsai 11:10).
“Đấng Christ đã chết và sống lại, ấy là để làm Chúa kẻ chết và kẻ sống” (Rôma
14:9).
“lại soi sáng con mắt của lòng anh em, hầu cho biết điều trông cậy về sự kêu
gọi của Ngài là thể nào, sự giàu có của cơ nghiệp vinh hiển Ngài cho các thánh
đồ là làm sao, và biết quyền vô hạn của Ngài, đối với chúng ta có lòng tin, là
lớn dường nào, y theo phép tối thượng của năng lực mình, mà Ngài đã tỏ ra trong
Đấng Christ, khi khiến Đấng Christ từ kẻ chết sống lại và làm cho ngồi bên hữu
mình tại các nơi trên trời, cao hơn hết mọi quyền, mọi phép, mọi thế lực, mọi
quân chủ cùng mọi danh vang ra, không những trong đời nầy, mà cũng trong đời
hầu đến nữa. Ngài đã bắt muôn vật phục dưới chân Đấng Christ, và ban cho Đấng
Christ làm đầu Hội thánh” (Êphêsô 1:18-22).
Tư tưởng 2: "Đức Chúa Jêsus,
gọi là Christ" (Mathiơ 1:16) hiển
nhiên đã đến qua phổ hệ của Ápraham và David. Ai nấy phải ngồi thẳng lên rồi
long trọng xưng nhận như thế. Bản thân Ngài đã đưa ra lời xưng nhận về địa vị
Mêsi và Ngài có nhiều thế hệ con người làm chứng cho sự thực họ đã kinh nghiệm
sự hiện diện và quyền phép của Ngài trong vai trò Đấng Mêsi. Mathiơ đã khởi sự
làm chứng và có hàng ngàn người noi theo. Nếu Đấng Christ và các môn đồ Ngài
đang nói ra sự thực, thì thế gian đang phạm vào một sai lầm trong sự nó chối bỏ
Đấng Christ.
“Đức Chúa Jêsus đứng
trước quan tổng đốc, quan hỏi rằng: Có phải ngươi là Vua của dân Giu-đa không?
Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời” (Mathiơ 27:11).
“Đức Chúa Jêsus đáp
lại rằng: Nước của ta chẳng phải thuộc về thế gian nầy. Ví bằng nước ta thuộc
về thế gian nầy, thì tôi tớ của ta sẽ đánh trận, đặng ta khỏi phải nộp cho dân
Giu-đa; nhưng hiện nay nước ta chẳng thuộc về hạ giới. Phi-lát bèn nói rằng:
Thế thì ngươi là vua sao? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời, ta là vua.
Nầy, vì sao ta đã sanh và vì sao ta đã giáng thế: ấy là để làm chứng cho lẽ
thật. Hễ ai thuộc về lẽ thật thì nghe lấy tiếng ta” (Giăng 18:36-37).
2. (1:2) Đức Chúa Jêsus
Christ, Gia phổ: gia phổ của Đức Chúa Jêsus Christ khích lệ các tín hữu bị
tan rãi. Giữa vòng các con trai của Giacốp, chỉ có Giuđa là tổ phụ của Đấng
Christ. Thế thì tại sao mười một anh em của ông, tất cả các con trai của
Giacốp, lại được liệt kê ra trong bảng gia phổ? Có lẽ chỉ có một lý do mà thôi.
Từng người Do thái đều biết rõ Ngài đã đến qua dòng dõi của Giacốp; từng người
Do thái là một dòng dõi của một trong các con trai của Giacốp. Trong thời điểm
Mathiơ viết, Rome đã thống trị thế gian. Rome, giống như người Babylôn, đã tan
rãi người Do thái trên khắp thế giới. Mathiơ ước ao khích lệ tất cả người Do
thái — khích lệ họ bằng cách đoan chắc với họ rằng họ là dòng dõi của các con
trai Giacốp và vì thế họ có phần trong Đấng Christ, là Đấng Mêsi chơn thật. Hết
thảy họ đều ở trong phổ hệ tiếp nhận mọi lời hứa lập với Ápraham và dòng dõi
của ông sẽ được nhóm lại với nhau dưới đời trị vì của dòng dõi David. (Xem NC #2—Mathiơ
1:18. Đây là ghi chú quan trọng để nhìn thấy quan điểm nầy rõ ràng
hơn).
Tư tưởng 1: Các tín hữu đôi khi
cảm thấy mình bị tan rãi khắp nơi: cô đơn, một mình, thất vọng, bị lấn lướt,
không mục đích, vô nghĩa, hay không quan trọng trong cuộc sống. Họ cảm thấy
giống như thể họ đang ở trong một con đường mòn — không biết đi tới đâu. Họ cảm
thấy Đức Chúa Trời ở đâu đó xa lắc xa lơ, không thể đến gần được. Họ lấy làm lạ
không biết tại sao Đức Chúa Trời không đáp lời và làm thỏa mãn nhu cần của họ.
Mathiơ đang nói với mọi người: từng tín đồ đang ở trong phổ hệ tiếp nhận lời
hứa của Đức Chúa Trời lập với Ápraham và với David (xem chú thích — Mathiơ 1:1;
chú thích — Mathiơ 1:3-6).
Đức Chúa Trời làm thỏa mãn nhu cần của tín đồ trong Đấng Christ và sẽ làm ứng
nghiệm mọi lời hứa của Ngài ở trong Ngài.
“và bởi vinh hiển nhân
đức ấy, Ngài lại ban lời hứa rất quí rất lớn cho chúng ta, hầu cho nhờ đó anh
em được lánh khỏi sự hư nát của thế gian bởi tư dục đến, mà trở nên người dự
phần bản tánh Đức Chúa Trời” (II Phierơ 1:4).
“Lời hứa mà chính Ngài đã hứa cùng chúng ta, ấy là sự sống đời đời” (I Giăng
2:25).
“Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức
Chúa Trời. Lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự: kẻ kế tự Đức Chúa
Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ, miễn chúng ta đều chịu đau đớn với
Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài” (Rôma 8:16-17).
“hầu cho chúng ta nhờ ơn Ngài được xưng công bình, trở nên con kế tự của Ngài
trong sự trông cậy của sự sống đời đời” (Tít 3:7).
3. (1:3-6) Sự thương xót: gia phổ của Đức
Chúa Jêsus Christ làm biểu tượng cho ơn thương xót vinh hiển của Đức Chúa Trời.
Thật là bất thường khi tìm thấy tên của những phụ nữ trong bảng gia phổ. Họ
được liệt kê ra trong phổ hệ của Chúa Jêsus như một dấu chỉ về ơn thương xót
của Đức Chúa Trời.
1. Tama là một kẻ cám dỗ và là một người tà dâm, Đức Chúa Trời đã chìa tay ra
với nàng (Sáng thế ký
38:24…).
2. Raháp là một dân Ngoại bị người Do thái chối bỏ. Nàng là một kỵ nữ được cứu
ra khỏi sự phán xét vì nàng đã luyện tập đức tin nơi Đức Chúa Trời và nơi
Israel là dân sự của Ngài (Giôsuê 2:1…).
3. Rutơ là một công dân của một nước bị dân Do thái thù ghét, nhưng nàng là một
phụ nữ được chọn để kết hiệp với Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài (Rutơ 1…).
4. Bátsêba đã phạm tội hiển nhiên với David, nhưng bà đã tìm kiếm ơn tha thứ
của Đức Chúa Trời cùng với David (II Samuên 11-12).
Tư tưởng 1: Chẳng có một ngăn
trở nào đối với sự thương xót của Đức Chúa Trời. Ngài sẽ giáng ơn thương xót
trên bất cứ ai — bất luận phái tính, quốc tịch, hay tội lỗi nào. Hãy nhìn vào
bốn phụ nữ được liệt kê trong hàng tổ phụ của Đấng Christ xem. Ơn thương xót của
Đức Chúa Trời thật kỳ diệu là dường nào!
Tư tưởng 2: Có một hình ảnh rất
đẹp trong bốn người đàn bà được liệt kê ra trong gốc tích của Chúa Jêsus, một
bức tranh đẹp nói tới Tin Lành của Đấng Christ: tội lỗi của họ được tha thứ và
họ đã được chính Đức Chúa Trời tiếp nhận.
“đều là những sự anh
em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không
trung tức là thần hiện đang hành động trong các con bạn nghịch. Chúng ta hết
thảy cũng đều ở trong số ấy, trước kia sống theo tư dục xác thịt mình, làm trọn
các sự ham mê của xác thịt và ý tưởng chúng ta, tự nhiên làm con của sự thạnh
nộ, cũng như mọi người khác. Nhưng Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót,
vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta, nên đang khi chúng ta chết
vì tội mình, thì Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ, ấy là nhờ ân điển
mà anh em được cứu” (Êphêsô 2:3-5).
“Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội,
theo sự dư dật của ân điển Ngài” (Êphêsô 1:7).
“không phải cứu vì việc công bình chúng ta đã làm, nhưng cứ theo lòng thương
xót Ngài, bởi sự rửa về sự lại sanh và sự đổi mới của Đức Thánh Linh” (Tít
3:5).
4. (1:7-10) Đức Chúa Jêsus
Christ, Gia phổ: gia phổ của Đức Chúa Jêsus Christ tỏ ra ân điển của Đức
Chúa Trời con người không thừa tự được; ân ấy được ban ra theo ý muốn của Ngài.
Có cả hai: các vua nhơn đức và gian ác trong hàng tổ phụ của Đấng Christ. Chỉ
vì một vì vua nhơn đức không có nghĩa là điều thiện của vua ấy sẽ được kế tự
bởi vị vua kế đó.
1. Các vua nhơn đức được ghi ra ở Mathiơ 1:7-8 là:
Þ Salômôn (I Các Vua
1:1-11:43).
Þ Asa (I Các Vua
15:9-24; II Sử ký 14-16).
Þ Giôsaphát (hay Giôhôsaphát, II Sử ký 17-20).
2. Các vua gian ác là:
Þ Rôbôam (hay Rêhôbôam I Các Vua 11:43…).
Þ Abia (hay Abigia, II Sử ký 12:16…).
Þ Giôram (hay Giêhôram, II Các Vua
8:21-24; I Sử ký 3:11).
Tư tưởng 1: Sự tin kính và sự
công bình người ta không thể thừa tự được. Không phải vị vua nầy sẽ chuyển giao
bổn tánh của mình cho vị vua kế tiếp đâu. Từng hữu thể con người sẽ đứng như
một cá nhân trước mặt Đức Chúa Trời và chịu trách nhiệm cho đời sống và cách ăn
ở của chính mình (Giăng 1:12-13).
Một người có thể có bố mẹ tin kính và một gia đình tin kính, song sự tin kính
không được chuyển giao từ người nầy sang người kia. Một người phải đối diện với
Đức Chúa Jêsus Christ vì bản thân mình.
“Vậy, các ngươi hãy
kết quả xứng đáng với sự ăn năn, và đừng tự khoe rằng: Ap-ra-ham là tổ chúng
ta; và ta nói cho các ngươi rằng Đức Chúa Trời có thể khiến đá nầy sanh ra con
cái cho Ap-ra-ham được” (Mathiơ 3:8-9)
“Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa
Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài, là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết,
hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy” (Giăng
1:12-13).
5. (1:11-16) Phu tù cho
Babylôn: bảng gia phổ của Đức
Chúa Jêsus Christ nhấn mạnh quyền phép của Đức Chúa Trời hay giữ mọi lời hứa
của Ngài. Quyền phép của Đức Chúa Trời được thấy trong các biến cố đặc biệt.
1. Quyền phép của Đức Chúa Trời được thấy trong sự giải cứu dân sự Ngài qua
những thời điểm kinh khiếp (thí dụ, cuộc phu tù cho Babylôn). Tại sao cuộc phu
tù ở Babylôn lại nổi bật lên trong bảng gia phổ của Đấng Christ (Mathiơ 1:11-12, 17)?
Mathiơ muốn nhấn mạnh một sự kiện quan trọng. Một mình Đức Chúa Trời có thể cứu
một dân tộc qua một thử thách nghiêm trọng như thế. Người Babylôn đã bắt dân
của các nước họ chinh phục rồi tan rãi họ ra trên khắp thế giới. Qua những cách
thức như thế, họ đã hủy diệt và chinh phục các nước. Nhiều thế hệ nối tiếp đã
quên bẳng đi lai lịch của họ, quên đi lòng trung thành với quê hương cũ rồi tự
gắn mình với xứ sở hiện tại. Song chẳng phải như thế với dân Israel; Mathiơ
đang nói rằng Đức Chúa Trời đã bảo tồn dân Do thái qua tình trạng bất khả thi —
một nổ lực xác định họ là một dân. Và Đức Chúa Trời đã làm việc ấy để bảo tồn phổ
hệ của Đấng Mêsi giờ đây đã hiện đến (đối chiếu Êsai 45:8-9).
2. Quyền phép của Đức Chúa Trời được thấy trong việc sai phái Đấng Christ, là
Đấng Mêsi (xem NC #3 —
Mathiơ 1:16; NC #2 —
Mathiơ 1:18).
Tư tưởng 1: Đây là một sự kiện
lịch sử, Đức Chúa Trời đã bảo tồn dân Do thái qua từng nổ lực để nhận dạng họ.
Bởi quyền phép ấy, Ngài đã làm ứng nghiệm lời hứa của Ngài để sai Con của Ngài
đến qua dòng dõi của Ápraham và David. Từng người sẽ nhìn thấy rõ cả hai: một
lời cảnh cáo và một hy vọng.
Tư tưởng 2: Đức Chúa Trời đã bảo
tồn dân Do thái qua cuộc phu tù cho người Babylôn; Ngài đã giữ lời hứa của Ngài
khi sai phái Đấng Mêsi. Người tín đồ có thể yên nghỉ chắc chắn nơi các lời hứa
và quyền phép của Đức Chúa Trời, vì Ngài sẽ làm ứng nghiệm mọi lời hứa của
Ngài. Thế gian có thể thắng hơn: thất vọng, buồn rầu, ngã lòng, trống vắng, cô
độc, và thiếu mục đích sẽ bị chinh phục. Có đắc thắng chắc chắn trong mọi lời
hứa của Ngài.
“Những sự cám dỗ đến
cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín,
Ngài chẳng hề cho anh em bị cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ,
Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được” (I Côrinhtô 10:13).
“Vì chưng cũng như các lời hứa của Đức Chúa Trời đều là phải trong Ngài cả, ấy
cũng bởi Ngài mà chúng tôi nói "A-men," làm sáng danh Đức Chúa Trời.
Vả, Đấng làm cho bền vững chúng tôi với anh em trong Đấng Christ, và đã xức dầu
cho chúng tôi, ấy là Đức Chúa Trời; Ngài cũng lấy ấn mình mà đóng cho chúng tôi
và ban của tin Đức Thánh Linh trong lòng chúng tôi” (II Côrinhtô 1:20-22).
“Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao
trọng đời đời, vô lượng, vô biên” (II Côrinhtô 4:17).
“vì hễ sự gì sanh bởi Đức Chúa Trời, thì thắng hơn thế gian; và sự thắng hơn
thế gian, ấy là đức tin của chúng ta. Ai là người thắng hơn thế gian, há chẳng
phải kẻ tin Đức Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời hay sao?” (I Giăng 5:4-5).
Tư tưởng 3: Đã nhiều thế kỷ qua
trước khi Đức Chúa Trời làm ứng nghiệm lời hứa của Ngài sai phái một Cứu Chúa
đến với thế gian. Nhiều người đã thất vọng; nhiều người khác đã quên bẳng đi
niềm tin. Có một số người đã đi xa hơn, họ chế giễu và bắt bớ những ai vẫn còn
tin theo. Nhưng "khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con
Ngài...." (Galati 4:4).
Có phần ứng dụng ở đây cho lần đến thứ hai của Đấng Christ: "trong những ngày
sau rốt, sẽ có mấy kẻ hay gièm chê, dùng lời giễu cợt... nói rằng: Chớ nào lời
hứa về sự Chúa đến ở đâu...?" (Đối chiếu II Phierơ 3:3-18).
NGHIÊN CỨU #2 (1:16)
Đấng Christ — Đấng Mêsi: từ ngữ nói tới "Christ" và "Mêsi" là
cùng một từ: christos. Mêsi là từ Hybálai và Christ là từ Hylạp. Cả
hai từ đều nói tới cùng một Thân Vị: Đấng Chịu Xức Dầu. Đấng Mêsi
là Đấng Chịu Xức Dầu của Đức Chúa Trời. Mathiơ nói rằng Chúa
Jêsus "được gọi là Christ" (Mathiơ 1:16); nghĩa là, Ngài được
công nhận là Đấng Chịu Xức Dầu của Đức Chúa Trời, chính mình Đấng Mêsi.
Trong thời của Đức Chúa Jêsus Christ, dân sự đều ao ước sự đến của Đấng Mêsi
được hứa từ lâu. Gánh nặng của cuộc sống rất khắc nghiệt, khó nhọc, và không
sáng sủa chi hết. Dưới thời Lamã, dân sự cảm thấy rằng Đức Chúa Trời không thể
chờ đợi thêm được nữa khi muốn làm ứng nghiệm lời hứa của Ngài. Những ước ao
như thế về sự giải cứu đã khiến cho dân sự ra cả tin. Nhiều người chổi dậy xưng
mình là Đấng Mêsi và dẫn các môn đồ cả tin ấy vào sự loạn nghịch chống lại
chính quyền Lamã. Baraba, là kẻ nổi loạn, hắn được tha tự do thay chỗ của Chúa
Jêsus trong cuộc xét xử Chúa Jêsus, là một thí dụ (Mác 15:6…). (Xem chú thích
— Mathiơ 1:1; NC #2—Mathiơ
3:11; chú thích —Mathiơ 11:1-6; chú thích — Mathiơ 11:2-3; NC #1 — Mathiơ
11:5; NC #2 — Mathiơ
11:6; NC #1 — Mathiơ
12:16; chú thích — Mathiơ 22:42; chú thích — Luca 7:21-23).
Đấng Mêsi được suy nghĩ theo một số việc:
1. Về mặt dân tộc, Ngài phải là lãnh tụ ra từ dòng dõi của David,
Ngài sẽ đặt ra thể chế Do thái rồi lập thành một nước độc lập, lãnh đạo nước ấy
trở thành một nước lỗi lạc nhất mà thế gian từng nhìn biết.
2. Về mặt quân sự, Ngài cần phải trở thành một lãnh đạo quân sự tài
ba, Ngài sẽ lãnh đạo các đội quân Do thái chiến thắng trên khắp thế gian.
3. Về mặt tôn giáo, Ngài cần phải trở thành một nhân vật siêu nhiên
ra từ Đức Chúa Trời, Ngài sẽ lập sự công bình trên toàn cầu.
4. Về mặt cá nhân, Ngài phải là Đấng sẽ mang lại sự hoà bình cho
khắp thế giới.
Đức Chúa Jêsus Christ đã chấp nhận tước hiệu Mêsi trong ba trường hợp khác
nhau (Mathiơ 16:17; Mác 14:61; Giăng 4:26). Danh Jêsus tỏ ra
Ngài là một con người. Danh xưng Christ tỏ ra Ngài là Đấng Chịu Xức Dầu của Đức
Chúa Trời, là chính Con độc sanh của Đức Chúa Trời. Christ là tước hiệu của
Chúa Jêsus. Danh ấy xác định Ngài chính thức là:
Þ Tiên tri (Phục truyền luật
lệ ký 18:15-19. Xem chú thích — Luca 3:38 tìm những câu
Kinh thánh và sự ứng nghiệm).
Þ Thầy tế lễ (Thi thiên 110:4. Xem NC #1 — Luca
3:32-38 tìm những câu Kinh thánh và sự ứng nghiệm).
Þ Vua (II Samuên
7:12-13. Xem chú thích — Luca 3:24-31 tìm những câu
Kinh thánh và sự ứng nghiệm).
Các chức sắc nầy luôn luôn được xức với dầu, một biểu tượng nói tới Đức Thánh
Linh, Ngài phải xức dầu hoàn toàn cho Đấng Christ, là Đấng Mêsi (Mathiơ 3:16; Mác 1:10-11; Luca 3:21-22; Giăng 1:32-33).
NGHIÊN CỨU #3 (1:16) Sự ra
đời của Chúa Jêsus — Con của Đức Chúa Trời: hãy chú ý từ ngữ
được thay đổi "sanh". Chúa Jêsus được Mary sanh ra chớ
không phải do Giôsép. Giôsép là chồng của Mary, nhưng Chúa Jêsus không do
Giôsép sanh ra. Ngài được Đức Thánh Linh sanh ra qua Mary.
Điều nầy nhấn mạnh một sự kiện quan trọng: Chúa Jêsus không ra đời từ một con
người, mà là do Đức Thánh Linh (xem chú thích 1 — Mathiơ 1:18; NC #8 —
Mathiơ 1:23; NC #9 —
Mathiơ 1:23). Ngài là Trời, tuy nhiên là người qua sự thai dựng trong Mary.
Ngài là Người-Trời, là Đức Chúa Trời trọn vẹn — con người trọn vẹn. Ý nghĩa
thực của điều nầy, ấy là Đức Chúa Trời, Ngài có khả năng không phạm tội. Không
một người nào khác kể từ Ađam có được khả năng nầy, vì những người nam khác đều
có một người cha và một người mẹ con người, một người cha và một người mẹ đã bị
nhiễm với bản chất tội lỗi của con người. Vì lẽ đó, con cái của một người được
sanh ra với cùng một bổn tánh, một bổn tánh không khác chi hơn là phạm tội. Tuy
nhiên, Đức Chúa Jêsus Christ, là Con độc sanh của Đức Chúa Trời do Đức Thánh
Linh sanh ra, đã có khả năng sống một đời sống trọn vẹn và công bình. Ngài có
khả năng không bao giờ phạm tội.
Tuy nhiên, Đức Chúa Jêsus Christ, là người, cũng có khả năng phạm tội. Ngài đã
gánh chịu mọi thử thách và cám dỗ y như bao người khác phải chịu. Ngài có thể
cố ý phạm tội. (Xem chú thích —Giăng 6:38 để thảo luận
thêm).
Nhưng có sự khác biệt vinh hiển nầy. Ngài sử dụng khả năng không bao giờ phạm
tội. Ngài đã học tập vâng lời bởi những việc mà Ngài đã gánh chịu (Hêbơrơ 5:8). Ngài không hề nhượng
bộ đối với sự cám dỗ; Ngài không hề phạm tội (II Côrinhtô 5:21). Nhơn đó Ngài trở
thành Con Người Trọn Vẹn Và Lý Tưởng, nơi Ngài mọi người đều tìm được ơn cứu
rỗi của họ (xem NC #3 —
Mathiơ 8:20; NC #2 — Giăng
8:23). (Xem NC #8 —
Mathiơ 1:23).
6. (1:17) Lịch sử thuộc
linh: gia phổ của Đức
Chúa Jêsus Christ làm biểu tượng cho các thế hệ thuộc lịch sử thuộc linh.
Þ Thời kỳ thứ nhứt trong lịch sử của Israel có
thể làm biểu tượng cho Đức Chúa Trời cung ứng sự ra đời cho Israel qua Ápraham
và cung ứng quyền thống trị qua David.
Þ Thời kỳ thứ hai có thể làm biểu tượng cho
Israel mất đi quyền thống trị của nó và bị bắt làm nô lệ như một kết quả của sự
Đức Chúa Trời phán xét đối với tội lỗi.
Þ Thời kỳ thứ ba trong lịch sử Israel có thể
làm biểu tượng cho sự đắc thắng tối hậu của Israel qua Đấng Mêsi và quyền phép
giải phóng của Ngài.
Những thời kỳ lịch sử nầy cũng có thể làm biểu tượng cho chuyến hành trình
thuộc linh của bất kỳ người nào đã được cứu.
1. Con người ra đời và có ý định trị vì giống như Vua.
"Đức Chúa Trời
phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng
quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt
đất, và khắp cả đất. Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng
nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người
nữ" (Sáng thế ký
1:26-27).
"Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm, Khiến muôn vật
phục dưới chân người" (Thi thiên 8:6).
2. Tuy nhiên, con người mất đi quyền cai trị của mình qua sự làm nô lệ cho tội
lỗi và sự phán xét của Đức Chúa Trời.
"Ngài phán cùng
người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ
chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và
chồng sẽ cai trị ngươi. Ngài lại phán cùng A-đam rằng: Vì ngươi nghe theo lời
vợ mà ăn trái cây ta đã dặn không nên ăn, vậy, đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn
đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. Đất sẽ sanh chông
gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; ngươi sẽ làm đổ mồ hôi
trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì
ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi" (Sáng thế ký
3:16-19).
"vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa
Trời" (Rôma 3:23).
"Cho nên, như bởi một người mà tội lỗi vào trong thế gian, lại bởi tội lỗi
mà có sự chết, thì sự chết đã trải qua trên hết thảy mọi người như vậy, vì mọi
người đều phạm tội" (Rôma 5:12).
3. Giờ đây, con người có thể được giải phóng và được phục hồi để làm ứng nghiệm
mục đích nguyên thủy của Ngài qua Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng Mêsi.
"Vì Đức Chúa Trời
yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy
không bị hư mất mà được sự sống đời đời" (Giăng 3:16).
"Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng
ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết. Huống chi nay
chúng ta đã nhờ huyết Ngài được xưng công bình, thì sẽ nhờ Ngài được cứu khỏi
cơn thạnh nộ là dường nào! Vì nếu khi chúng ta còn là thù nghịch cùng Đức Chúa
Trời, mà đã được hòa thuận với Ngài bởi sự chết của Con Ngài, thì huống chi nay
đã hòa thuận rồi, chúng ta sẽ nhờ sự sống của Con ấy mà được cứu là dường
nào!" (Rôma 5:8-10).
"Thật anh em đã chẳng nhận lấy thần trí của tôi mọi đặng còn ở trong sự sợ
hãi; nhưng đã nhận lấy thần trí của sự làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu
rằng: A-ba! Cha! Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta
là con cái Đức Chúa Trời. Lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự: kẻ
kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ, miễn chúng ta đều chịu
đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài. Vả, tôi tưởng rằng
những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ
được bày ra trong chúng ta" (Rôma 8:15-18).
0 nhận xét:
Cảm ơn bạn đã nhận xét. Nguyện Chúa ban phước cho bạn.