GIÁO SƯ: Khi có ai đó đề cập đến “thuyết tiến hóa,” hầu hết mọi người đều nghĩ đến Charles Darwin. Chúng ta thường dùng “học thuyết Darwin” như một từ đồng nghĩa của “thuyết tiến hóa.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nhưng có hai người đã cho xuất bản học thuyết tiến hóa của mình trong cùng một năm. Alfred Russel Wallace [AL-fred RUS-ul WAL-us] là “cộng sự thầm lặng của Darwin”
GIÁO SƯ: Darwin và Wallace có những quan điểm rất khác nhau về cách thức con người trở nên quá thông minh và tài giỏi. Hôm nay mời chúng ta cùng thảo luận những tư tưởng của Wallace.
GIÁO SƯ: Charles Darwin đã tập trung vào học thuyết tiến hóa hữu cơ của mình suốt hơn 20 năm, khi ông nghe nói rằng một nhà khoa học khác cũng nghĩ ra một học thuyết tương tự như vậy.
Alfred Russel Wallace không hề biết gì về những ý tưởng của Darwin. Nhưng khi Darwin biết về những ý tưởng của Wallace, các bạn của ông thúc giục ông mau chóng cho xuất bản để chắc chắn giành được danh tiếng là người đầu tiên nghĩ ra học thuyết đó. Bài viết của Darwin và Wallace được xuất bản cùng lúc, trong một tạp chí khoa học vào năm 1855.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: 1855 là bốn năm trước khi Darwin xuất bản cuốn sách nổi tiếng của mình, cuốn Origin of Species (Nguồn Gốc Các Loài,) vào năm 1859.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Và hơn một thập kỷ sau đó, vào năm 1871, Wallace xuất bản một cuốn sách nhỏ có tựa đề The Action of Natural Selection on Man (Tác Động Của Chọn Lọc Tự Nhiên Lên Con Người.)
Wallace nhất trí với học thuyết của Darwin, về phần nói về thế giới động vật. Nhưng Wallace nhận định rằng, dù các điều kiện sống trên trái đất đã thay đổi rất nhiều, nhưng cơ thể con người không thay đổi nhiều. Wallace viết: “…chúng ta biết rằng con người đã vượt qua những thay đổi rất lớn trong môi trường sống tốt hơn bất kỳ loài động vật có tổ chức cao nào khác mà không thay đổi, nhờ những thích nghi trong trí óc, chứ không phải trong cấu tạo cơ thể.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Bằng cách sử dụng trí óc, chứ không phải chân tay.
GIÁO SƯ: Đúng như vậy. Wallace nói rằng người man rợ và người văn minh rất khác biệt trong thái độ ứng xử, thức ăn, quần áo và vũ khí. Ngược lại, gần như không có khác biệt nào trong hình dáng và cấu tạo cơ thể - ngoại trừ một bộ não lớn hơn.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Động vật thích ứng với khí hậu lạnh hơn bằng cách thay đổi cơ thể - Chẳng hạn như, bằng cách mọc lông. Nhưng con người thích ứng bằng cách sử dụng trí óc – hình dung ra làm thế nào để tạo ra quần áo hoặc dựng một ngôi nhà và sưởi ấm.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Wallace viết tiếp: “Nhờ tri thức vượt trội của mình con người có khả năng tự trang bị quần áo và vũ khí, cày cấy trồng trọt để tự tạo một nguồn cung cấp thực phẩm thích hợp ổn định. Điều đó khiến cơ thể con người không cần phải thay đổi theo những biến đổi của điều kiện sống – có được một sự che phủ tự nhiên ấm áp hơn, có được hàm răng hay bộ móng vuốt mạnh mẽ hơn, hay trở nên thích nghi để thu thập và tiêu hóa những loại thức ăn mới…”
Giáo sư Wallace nói học thuyết của ông giải thích về hai nhận định dường như trái ngược nhau: Rằng cơ thể người hết sức tương đồng với vượn người, nhưng bộ não người khác xa bộ não vượn người đến mức có một “vực thẳm tri thức,” giữa não người và não vượn người.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Ông ấy nghĩ điều gì đã tạo nên sự khác biệt lớn đó?
GIÁO SƯ: Giáo sư Wallace kết luận một chương bằng cách nói rằng những phẩm chất trí tuệ khiến con người thông minh vượt trội hơn các loài động vật khác “là bằng chứng chắc chắn cho thấy có những thực thể khác cao cấp hơn chúng ta, và những phẩm chất đó có thể có nguồn gốc từ những thực thể này.
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Có phải ý ông ấy là Đức Chúa Trời không?
GIÁO SƯ: Nghe có vẻ như vậy. Ông ấy không dùng từ “Đức Chúa Trời.” Nhưng cho đến lúc này ông đã nói về một hoặc nhiều hơn một thực thể “cao cấp hơn chúng ta.” Ông tóm tắt luận điểm của mình trong 4 trang rưỡi cuối cuốn sách. Theo lời ông ấy là: “Tôi xin tiếp tục tranh luận của mình cách ngắn gọn – tôi đã chứng minh được bộ não của những người man rợ thấp kém nhấp…có kích thước chỉ nhỏ hơn rất ít so với loại người cao cấp nhất, và vô cùng vượt trội so với những loài động vật cao cấp…”
“Nhưng các nhu cầu trí óc của người man rợ…không hơn những loài động vật này bao nhiêu. Những xúc cảm cao hơn về đạo đức thanh cao và cảm xúc tao nhã, sức mạnh lập luận trừu tượng và khả năng tư duy, không có ý nghĩa gì với họ, …và không có mối liên hệ quan trọng nào với khao khát sung túc của họ. Họ sở hữu một cơ quan trí óc vượt trội hơn nhu cầu của mình.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Chẳng hạn như, những người sống trong rừng rậm có thể sống sót mà không cần có khả năng giải toán đại số hoặc vẽ tranh nghệ thuật. Nhưng bộ não của họ có khả năng học hỏinhững điều cao cấp này.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Đó là ý của ông ấy khi nói: “Họ sở hữu một cơ quan trí óc vượt trội hơn nhu cầu của mình. Chọn lọc tự nhiên chỉ có thể phú cho người man rợ một bộ não trội hơn vượn người một ít,trong khi bộ não họ sở hữu chỉ kém hơn một triết gia có một ít.” Sau đó ông nói: “Một số khả năng trí óc của họ không có liên hệ gì đến…các phát triển thể chất. Sức mạnh tư duy về cõi vĩnh hằng và sự vô tận, và tất cả những hình dung đầy tính trừu tượng về hình dạng, số liệu và sự hài hòa, …hoàn toàn nằm ngoài thế giới tư duy của người man rợ, và không có ảnh hưởng gì đến sự tồn tại của cá nhân hay bộ tộc của người đó.
“Vì vậy, chúng không thể được phát triển bởi bất kỳ sự tích lũy các dạng tư duy hiệu quả nào… Và sự phát triển của một ý thức đạo đức hay lương tâm theo những phương cách tương tự là điều không hình dung được.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nói cách khác, ông ấy không tin lương tâm của con người đã được hình thành thông qua các tiến trình tự nhiên.
GIÁO SƯ: Đúng như vậy. Nhưng một người sẽ không hoàn toàn là con người nếu không có tất cả những phẩm chất đó. Theo lời Wallace là: “Sự phát triển nhanh chóng của nền văn minh trong những điều kiện thuận lợi hẳn không thể nào xảy ra nếu trí óc của con người không được chuẩn bị từ trước – tức được phát triển đầy đủ về cấu trúc và kích thước… - và chỉ cần qua vài thế hệ sử dụng cũng như thói quen để phối hợp các chức năng phức tạp của nó.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Tư thế đi thẳng có ích như thế nào trong việc giúp con người văn minh hơn?
GIÁO SƯ: Giáo sư Wallace trả lời: “Dáng đứng thẳng của con người, nhờ giải phóng đôi tay khỏi các hoạt động di chuyển, đã trở nên cần thiết cho sự tiến bộ về tri thức của con người; và chính sự hoàn hảo tuyệt vời của đôi tay đã mang lại sự ưu việt trong tất cả các khía cạnh của văn minh, và chính văn minh nâng con người lên cao hơn người man rợ rất nhiều…”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nói cách khác, nhờ không phải di chuyển bằng cả tay và chân, con người đã có thể sử dụng đôi tay cho những hoạt động đòi hỏi sự khéo léo như hội họa, chơi nhạc cụ, và phẫu thuật.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Anh có bao giờ thấy một loài vật di chuyển bằng cả chi trước và chi sau có thể làm được những việc như vậy chưa?
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Chưa, tất nhiên là chưa.
GIÁO SƯ: Giáo sư Wallace nói tiếp: “Như vậy, những khả năng đó cho phép chúng ta…nhận thức được những tư duy tuyệt vời về toán học và triết học, hay giúp chúng ta có một khao khát mãnh liệt về những sự thật trừu tượng, …rõ ràng là rất quan trọng cho sự hoàn thiện của con người ở vị thế những thực thể có linh hồn. Nhưng hoàn toàn không thể hiểu được những khả năng đó lại được tạo ra thông qua tác động của một quy luật vốn…chỉ biết tìm kiếm những lợi ích vật chất trước mắt của cá nhân hoặc của chủng tộc.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nếu chọn lọc tự nhiên có thể cho một con vật hoặc một người một khả năng mới nào, thì đó chính là khả năng vượt qua những khó khăn xảy đến trước mắt.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Tự nhiên sẽ không bao giờ cho con người khả năng triết lý, giải các phương trình toán học, hay cầu nguyện.
Giáo sư Wallace lập luận: “Kết luận tôi sẽ rút ra…, là một trí thông minh vượt trội đã hướng dẫn quá trình phát triển của con người theo một hướng nhất định và một mục đích đặc biệt, cũng như con người hướng dẫn quá trình phát triển của nhiều loài động vật và thực vật.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Dường như ông ấy đang so sánh chọn lọc tự nhiên với những phương cách con người đã lai giống các loài thực vật và động vật.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Con người đã sử dụng những hiểu biết về di truyền của mình để phát triển các loại cây ăn trái không hạt, và gây giống bò cho nhiều sữa hơn. Wallace lập luận rằng có người sẽ nhìn vào những giống loài mới do con người tạo ra và tin rằng chúng đã được tạo nên bởi tự nhiên. Nhưng, ông chỉ ra: “một sức mạnh mới đã tác động đến sự tạo ra chúng, …trong những trường hợp này một trí thông minh đã kiểm soát và chi phối tác động của các quy luật biến dị, nhân bản và tồn tại, cho mục đích riêng của mình.”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Chúng ta biết rằng các nhà di truyền học đã cải tiến tự nhiên để khiến cây trồng và vật nuôi có hiệu quả hơn trong việc sản xuất thực phẩm.
GIÁO SƯ: Đúng vậy. Do đó Wallace đã lập luận: “…vì vậy chúng ta phải thừa nhận khả năng là…một trí thông minh vượt trội nào đó có thể đã hướng dẫn quá trình phát triển của loài người…’ Ông nói thêm: “…Giả thuyết này…ngụ ý rằng các quy luật trọng yếu chi phối vũ trụ vật lý này cũng chưa là điều kiện đủ cho quá trình này, …hay, ảnh hưởng mang tính kiểm soát của…những trí thông minh vượt trội hơn là một phần cần thiết của các quy luật này…”
NGƯỜI PHỎNG VẤN: Nói cách khác, người đồng sáng tạo học thuyết tiến hóa, Alfred Russel Wallace, không phải là một người vô thần.
GIÁO SƯ: Đúng như vậy. Ông nói về một hoặc nhiều thực thể “cao cấp hơn chúng ta,” vượt trội hơn con người. Là người đồng sáng tạo thuyết tiến hóa với Darwin, Wallace bị các nghiên cứu của mình thuyết phục rằng sự tiến hóa đã không làm nên bộ não con người. Mặc dù không dùng từ Đức Chúa Trời, ông vẫn tin rằng một “sức mạnh vượt trội” nào đó đã tạo dựng nên con người.
|
0 nhận xét:
Cảm ơn bạn đã nhận xét. Nguyện Chúa ban phước cho bạn.