Người Việt chúng ta có nhiều tôn giáo. Đạo nào cũng có những niềm
tin và những nét đặc thù riêng. Nếu phải dành cả đời để nghiên cứu cho
tận tường về tín ngưỡng của người Việt, có lẽ cả đời người cũng chưa đủ.
Tuy nhiên, theo thiển nghĩ khá chủ quan của tôi thì Đạo Chúa quả là một đạo thật
và đạo tốt; vì đó là đạo thờ Trời, tức thờ phượng Đức Chúa Trời hay Ông Trời
của người Việt chúng ta, Đấng Tạo Hóa của muôn loài vạn vật.
Theo sự mạc khải của Ngài qua cõi thiên
nhiên và qua lương tri, tổ tiên chúng ta đã nhận biết Ngài và thờ phượng Ngài
từ hàng ngàn năm về trước. Rất tiếc, vì nhiều lý do lịch sử rất phức tạp,
dân tộc chúng ta đã không được cơ hội biết Ngài một cách đúng đắn để có thể thờ
phượng Ngài một cách chính xác hơn theo như Kinh Thánh đã chỉ dạy.
Do ước muốn giúp đồng bào mình hiểu
biết rõ hơn về Đức Chúa Trời theo ánh sáng của Kinh Thánh, tôi mạo muội soạn ra
tập bài học nầy, mô phỏng theo hình thức cuốn “Phước Âm Yếu Chỉ” đã có khoảng
50 năm về trước, với hy vọng những ai đang trên đường tầm đạo sẽ có cơ hội hiểu
thêm về Đạo Chúa, và những tân tín hữu sẽ có dịp hiểu rõ hơn về tín ngưỡng mà
mình mới tin theo, hầu sau đó có thể xin thọ lễ báp-têm, công khai trở thành
một môn đồ của Chúa Cứu-thế Giê-su, và được Ngài dùng làm nguồn phước cho nhiều
người.
Ước mong rồi đây sẽ có hàng triệu đồng
bào chúng ta tin thờ Chúa và được Ngài ban phước, để dân tộc chúng ta cũng sẽ
vươn mình lên và vượt trỗi giữa cộng đồng nhân loại.
Muốn thật hết lòng.
Mục sư Đặng Ngọc Báu
Bài 1
Đức Chúa Trời
1. Đức Chúa Trời là ai?
Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa. Ngài dựng nên mọi vật
trong vũ trụ và muôn loài vạn vật trên thế gian nầy. Người Việt chúng ta
gọi Ngài là “Trời” hay “Ông Trời.” Những người chịu ảnh hưởng của Hán Học
và người Trung Hoa gọi Ngài là “Thiên Chúa” hay “Thượng Đế”. Người Hoa
Kỳ, người Anh, người Úc-đại-lợi, và những dân tộc nói tiếng Anh gọi Ngài là
“God.” Người Đức gọi Ngài là “Gott.” Người Pháp gọi Ngài là
“Dieu.” Người nói tiếng Tây-ban-nha gọi Ngài là “Dios.” Người
Do-thái thì gọi Ngài là “El,” “Elohim,” hay “Yahweh” (Đức Giê-hô-va).
Những người Việt tin thờ Chúa gọi Ngài là Đức Chúa Trời, Cha, hay Thiên Phụ, để
tỏ lòng tôn kính Ngài.
Dù các ngôn ngữ và các dân tộc có những danh khác nhau để
gọi Ngài, nhưng tất cả các danh đó đều chỉ về một Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa
của muôn loài vạn vật.
Kinh
Thánh dạy:
Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.
(Sáng Thế 1:1).
Ôi, chỉ một mình Ngài là Chúa, Đấng có một không hai.
Ngài đã dựng nên các tầng trời, và trời của các tầng trời, cùng toàn thể thiên
binh; Ngài đã dựng nên trái đất và mọi vật trên đất, biển và mọi vật trong
biển. Chính Ngài ban sự sống cho muôn loài vạn vật. Toàn thể thiên
binh thiên sứ đều phủ phục xuống tôn thờ Ngài. (Nê-hê-mi-a 9:6).
Nhà nào cũng do người nào đó xây dựng, còn Đức Chúa Trời là
Đấng đã dựng nên muôn vật.
(Hê-bơ-rơ 3:4).
2. Làm thế nào chúng ta biết có Đức
Chúa Trời?
Chúng
ta nhận biết có Đức Chúa Trời qua lương tri, qua sự quan sát cõi thiên nhiên,
qua lời Kinh Thánh, và qua Đức Chúa Giê-su.
1) Lương
Tri
Con người sinh ra ở đời, không ai bảo ai, tự nhiên dân nào,
nước nào, ai nấy đều nhận biết có Đức Chúa Trời. Không khí chúng ta thở,
nước chúng ta uống, thực phẩm chúng ta ăn, sức khỏe, tri thức, và tình cảm
chúng ta có, thảy thảy đều do Đức Chúa Trời tạo dựng và phú cho. Nhìn vào
thân thể con người, chúng ta biết sự hoạt động cách trật tự của các bộ phận
trong cơ thể, của các tế bào, các nhiễm sắc thể, các nguyên tử, các phân tử,
các điện tử, và các hoá chất trong thân thể chúng ta đều theo các định luật
riêng mà mắt thường không thể thấy được, chúng ta tin rằng phải có một Đấng vô
cùng thông minh và quyền phép đã tạo nên như thế. Vì vậy, ở bất cứ nơi
nào, thuộc bất cứ thời đại nào, dù văn minh hay sơ khai, dù tri thức hay thất
học, con người đều tự nhiên tin có Đức Chúa Trời.
Ca dao chúng ta có bài nói rằng:
Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lây ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp ..
Thi hào Nguyễn Du viết trong Truyện Kiều:
Ngẫm hay muôn sự tại Trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân,
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Sự nhận biết về sự hiện hữu vô hình của Đức Chúa Trời dường
như là tự nhiên trong tâm trí của mọi người.
Kinh Thánh chép:
Kẻ dại nói trong lòng rằng, ‘Không có Đức Chúa Trời!’
(Thánh Thi 53:1).
Con cảm tạ Chúa, vì con đã được dựng nên cách đáng sợ lạ
lùng.
Công việc Ngài thật quá diệu kỳ, lòng con biết rõ lắm.
(Thánh Thi 139:14).
2) Cõi
Thiên Nhiên
Nhìn lên không trung, chúng ta thấy trật tự trong cõi thiên
nhiên và sự tuần hoàn nhịp nhàng của vũ trụ, ai ai cũng nhìn nhận rằng phải có
một Đấng Tạo Hóa cực kỳ thông minh và quyền phép đã dựng nên và sắp đặt mọi vật
như thế. Trái đất bay hàng triệu năm trong không gian, theo quỹ đạo đã
định cho nó trong thái dương hệ, không hề sai lệch một ly. Không khí trải
đều khắp mặt đất, bất kể thái dương hệ ở trong dãy thiên hà bay đến đâu trong
luồng tăm tối. Vũ trụ quả là một công trình lớn lao không thể tưởng tượng
nổi và vô cùng kỳ diệu của Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta không thể nói cái
đồng hồ tự nhiên mà có thì chúng ta cũng không thể bảo vũ trụ nầy tự nhiên mà
có được.
Các từng trời rao truyền vinh hiển của Đức Chúa Trời;
Bầu trời công bố công việc tay Ngài làm.
(Thánh Thi 19:1).
3) Kinh
Thánh
Toàn bộ Kinh Thánh dạy cho chúng ta biết Đức Chúa Trời là
Đấng như thế nào, Ngài có tương quan gì với loài người, và mối liên hệ của
chúng ta với Ngài phải ra làm sao. Ngay câu đầu tiên, Kinh Thánh đã xác
định cho chúng ta về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời.
Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.
(Sáng Thế 1:1).
Hỡi I-sơ-ra-ên, hãy lắng nghe: Chúa, Đức Chúa Trời của chúng
ta, là Chúa độc nhất vô nhị. Anh chị em hãy yêu kính Chúa, Đức Chúa Trời
của anh chị em, một cách hết lòng, hết linh hồn, và hết sức mình. (Phục
Truyền 6:4-5).
4) Đức
Chúa Giê-su
Đức Chúa Giê-su là hiện thân của Đức Chúa Trời trong thân
xác loài người. Ngài là Ngôi Hai Đức Chúa Trời và cũng được gọi là Đức
Chúa Con. Ngài giáng thế làm người để giải bày về Đức Chúa Trời cho chúng
ta biết.
Ngôi Lời (Đức Chúa Giê-su) đã trở nên xác thịt, và sống giữa
chúng ta. Chúng tôi đã chiêm ngưỡng vinh quang Ngài; thật là vinh quang
của Con Một đến từ Đức Chúa Cha, tràn đầy ân sủng và chân lý.(Giăng 1:14).
Chưa hề có ai thấy Đức Chúa Trời bao giờ, duy chỉ Con Một
Đức Chúa Trời, Đấng ở trong lòng Đức Chúa Cha; Ngài giải bày Đức Chúa Cha cho
chúng ta biết. (Giăng 1:18).
3. Tại sao chúng ta không thấy Đức
Chúa Trời?
Chúng ta không thể thấy Đức Chúa Trời được vì Ngài là thần
linh (spirit). Thần linh không có thân xác như loài người chúng ta, nên
chúng ta không thể thấy Ngài bằng mắt trần được.
Đức Chúa Trời là thần linh, nên ai thờ phượng Ngài phải thờ
phượng bằng tâm linh và bằng sự chân thật.
(Giăng 4:24).
4. Đức Chúa Trời từ đâu mà có?
Đức Chúa Trời là Đấng tự nhiên mà có. Không ai dựng
nên Ngài và cũng không ai sinh ra Ngài. Ngài là Đấng Tự Hữu và Hằng
Hữu. Ngài hiện hữu từ trước vô cùng và sẽ trường tồn đời đời vô tận.
Đức Chúa Trời phán với Mô-se, “Ta là Đấng Tự Hữu Hằng
Hữu.” Ngài lại phán, “Ngươi hãy nói với dân I-sơ-ra-ên như thế nầy, ‘Đấng
Tự Hữu đã sai tôi đến với anh chị em.’”(Xuất Hành 3:14)
Không có thần nào hiện hữu trước Ta, và sau Ta cũng không có
thần nào nữa. Ta, chính Ta, là Chúa; ngoài Ta ra không có Đấng Giải Cứu
nào khác.(I-sa-gia 43:10b-11).
Chúa là Đức Chúa Trời, Đấng Hiện Có, Đã Có, và Hầu Đến, và
là Đấng Toàn Năng phán, “Ta là An-pha và Ô-mê-ga.”(Khải Huyền 1:8).
An-pha và Ô-mê-ga là hai mẫu tự đầu tiên và cuối cùng của
bảng mẫu tự Hy-lạp. Hai từ này được dùng để ám chỉ rằng Chúa là Đấng hiện
hữu từ ban đầu và cuối cùng Ngài vẫn còn hiện hữu.
5. Đức Chúa Trời có còn không?
Đức Chúa Trời hằng còn mãi mãi. Ngài không bao giờ
chết. Ngài là Đấng Hằng Sống. Ngài sống đời đời vô cùng.
Trước
khi núi non chưa sinh ra, đất và thế gian chưa được dựng nên,
Từ trước
vô cùng cho đến đời đời, Ngài là Đức Chúa Trời.
(Thánh
Thi 90:2).
Đức Chúa
Trời phán với Mô-se, “Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu.”
(Xuất
Hành 3:14).
6. Đức Chúa Trời ở đâu?
Đức Chúa Trời ở khắp nơi. Các cụ ngày xưa thường nói,
“Đức Chúa Trời là Đấng vô sở bất tại,” có nghĩa là nơi nào cũng có Đức Chúa
Trời. Cùng một lúc Ngài có thể hiện diện ở khắp nơi. Trên trời,
dưới đất, và bất cứ nơi nào trong vũ trụ Đức Chúa Trời đều có mặt tại đó, bởi
vì Ngài là thần linh, Ngài không bị gò bó trong một thân xác ở một chỗ nào.
Con có
thể đi đâu cho khỏi Thần Linh Ngài?
Con có
thể trốn đâu cho khỏi mặt Ngài?
Nếu con
lên trời, có Ngài đang ngự tại đó;
Nếu con
xuống âm phủ, kìa, Ngài cũng hiện diện ở đó.
Nếu con
lấy cánh bình minh,
Bay đến
những nơi ở tận chân trời góc bể,
Tại đó,
tay Ngài sẽ dẫn dắt con;
Tay phải
Ngài sẽ nắm lấy con.(Thánh Thi 139:7-10).
7. Đức Chúa Trời có biết hết mọi sự không?
Có. Đức Chúa Trời biết tất cả. Ngài thấy tất cả.
Không việc chi giấu được Ngài. Ngài là Đấng vô sở bất tri.
Chúangự
trong đền thánh Ngài,
Chúa ngự
trên ngôi Ngài trên thiên đàng.
Mắt Ngài
thấy rõ hết;
Mí mắt
Ngài dò xét các con cái loài người.
(Thánh
Thi 11:4).
Nếu con
nói, "Chắc bóng tối sẽ che khuất con,
Khi ánh
sáng chung quanh con trở nên đêm tối,"
Nhưng
đối với Chúa, bóng tối chẳng tối tăm gì cả,
Ban đêm
sáng rõ như ban ngày;
Bóng tối
hay ánh sáng đều như nhau ở trước mặt Ngài.
(Thánh
Thi 139:11-12).
8. Đức Chúa Trời có thể làm được
mọi sự không?
Có. Đức Chúa Trời làm được mọi sự hợp theo thần tánh
của Ngài và thánh ý của Ngài. Không việc chi là khó khăn cho Ngài cả.
Ngài là Đức Chúa Trời quyền năng và toàn năng. Vì thế các cụ ngày xưa
thường gọi Ngài là Đấng vô sở bất năng.
Chúahiện ra với Áp-ram và phán, “Ta là Đức Chúa Trời Toàn
Năng (El Shaddai). Hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống cuộc đời thánh
thiện.”(Sáng Thế 17:1)
Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được. (Lu-ca
1:37)
Nhưng
Đức Chúa Giê-su nhìn họ và phán, “Đối với loài người, việc
ấy không
thể làm được, nhưng đối với Đức Chúa Trời thì mọi việc
đều được
cả.” (Ma-thi-ơ 19:26
9. Ngoài những đặc điểm trên, Đức
Chúa Trời còn có đặc điểm nào
nữa
chăng?
Đức Chúa Trời còn có nhiều đặc điểm khác nữa. Chúng ta
không thể kể hết các đặc điểm của Ngài ở đây. Tuy nhiên, chúng ta cũng có
thể kể thêm một vài đặc điểm khác của Ngài; chẳng hạn như: đức thánh khiết, đức
công chính, đức yêu thương, đức chân thật, đức thành tín, và đức thiện hảo.
10. Đức Chúa Trời là Đấng thánh
khiết có nghĩa gì?
Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết có nghĩa rằng Ngài thánh
sạch hoàn toàn. Trong Ngài không có chút chi xấu xa, ô uế, và tội lỗi.
Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là thánh.
(Lê-vi 19:2; 1 Phi-rơ 1:15-16).
Lạy
Chúa, trong vòng các thần, có ai giống như Ngài?
Ai có
thể sánh được với Ngài,
Đấng uy
nghi thánh khiết,
Đấng
vinh hiển đáng kinh,
Đấng làm
việc diệu kỳ?(Xuất Hành 15:11).
11. Thế nào là Đức Chúa Trời công
chính?
Đức Chúa Trời công chính có
nghĩa là Ngài luôn luôn đúng. Ngài ngay thẳng và công bình một cách tuyệt
đối. Ngài không thiên vị ai. Ngài ban thưởng cho người ngay lành thánh
thiện và Ngài đoán phạt những
kẻ gian ác tội lỗi. Dù yêu thương ai đến bao nhiêu, Ngài cũng không thể
coi kẻ có tội là vô tội.
Bấy giờ Phi-rơ mở miệng nói
với họ, “Quả thật, tôi biết Đức Chúa Trời không thiên vị người nào. Nhưng
hễ ai kính sợ Ngài và ăn ở ngay lành, bất luận là dân tộc nào, đều cũng được
Ngài chấp nhận.
(Công Vụ
10:34-35).
Ngài sẽ
phán xét thế gian trong sự công chính;
Ngài sẽ
xét xử muôn dân trong sự chính trực.
(Thánh
Thi 9:8).
“Chúa!
Chúa!
Là Đức
Chúa Trời thương xót và đầy ơn,
Chậm
giận,
Tràn đầy
tình thương và chân thật,
Thương
ai thì thương đến ngàn đời,
Tha thứ
tội ác, vi phạm, và tội lỗi,
Nhưng không kể
kẻ có tội là vô tội,
Do tội
của ông bà cha mẹ mà con cháu bị vạ lây đến ba bốn đời.”
(Xuất
Hành 34:6-7).
12. Thế nào là Đức Chúa Trời yêu
thương?
Yêu thương là bản tánh tự nhiên của Đức Chúa Trời.
Ngài không thể không yêu thương được. Lúc nào Ngài cũng là Đấng yêu
thương. Ngài chính là nguồn của tình yêu. Kinh Thánh dạy:
Ai không yêu thì không biết Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời
là tình yêu.(1 Giăng 4:8).
Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một
của Ngài, để ai tin Con ấy, không bị chết mất, mà được sự sống đời đời.(Giăng
3:16)
13. Thế nào là Đức Chúa Trời chân
thật?
Ngài luôn luôn thành thật. Chân thật là bản chất của
Ngài. Chính Ngài là chân lý. Ngài là nguồn của mọi chân lý.
Đức Chúa Trời không bao giờ nói dối vì bản chất của Ngài là chân thật.
Tất cả sự thật đều phát xuất từ Ngài. Ngài là sự thật tối hậu.
Người
nào tin nhận lời chứng của Ngài đều xác quyết rằng Đức Chúa
Trời là
chân thật.(Giăng 3:33).
... thể
nào anh chị em đã từ bỏ các thần tượng mà quay về với Đức
Chúa
Trời, để phục vụ Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật.
(1
Thê-sa. 1:9b).
14. Thế nào là Đức Chúa Trời
thành tín?
Đức Chúa Trời không bao giờ
thất hứa. Những gì Ngài hứa thì Ngài sẽ thực hiện đúng theo thời điểm tốt
nhất mà Ngài đã định.
Ta sẽ
không vi phạm giao ước của Ta,
Ta cũng
không thay đổi lời môi Ta đã phán.
(Thánh
Thi 89:34).
Đức Chúa Trời là Đấng thành
tín; Ngài đã gọi anh chị em vào sự hiệp thông
với Con Ngài, Chúa Cứu-thế Giê-su, Chúa chúng ta. (1 Cô-rinh-tô 1:9).
Bây giờ tôi sắp sửa đi qua
con đường mà mọi loài mọi vật trên đất phải đi qua. Tất cả anh chị em đều
biết rõ trong lòng và trong tâm hồn mình rằng mọi điều tốt đẹp
mà Chúa, Đức Chúa Trời của anh chị em, đã hứa với anh chị em, thì không một
điều nào mà Ngài không thực hiện. Tất cả đều được ứng nghiệm cho anh chị
em; không có điều nào mà Ngài không làm cả.
(Giô-sua
23:14).
15. Thế nào là Đức Chúa Trời thiện
hảo?
Đức Chúa Trời là Đấng tốt hoàn toàn. Ngài nhân
từ. Trong Ngài không có chút ý xấu nào. Ngài luôn luôn muốn ban
điều tốt nhất cho chúng ta, những người tin thờ Ngài.
Vì Chúa
thật tốt;
Tình
thương của Ngài hằng còn mãi mãi,
Đức
thành tín của Ngài còn đến muôn đời.
(Thánh
Thi 100:5).
Ngài đã
không tiếc chính Con Ngài, nhưng vì tất cả chúng ta mà
phó Con
ấy cho, lẽ nào Ngài sẽ không ban cho chúng ta mọi sự cùng
với Con
ấy sao?
(Rô-ma
8:32).
16. Đức
Chúa Trời có mấy ngôi?
Đức Chúa Trời có ba ngôi. Ba Ngôi đó là Đức Chúa Cha,
Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh. Ba Ngôi hiệp lại thành một Đức Chúa
Trời. Đức Chúa Trời có Ba Ngôi nhưng không phải là ba Đức Chúa
Trời. Đây là một lẽ đạo rất khó hiểu đối với trí tuệ hữu hạn của chúng
ta.
Khi chúng ta nhìn lên bầu trời, chúng ta không thể biết bầu
trời trên đầu chúng ta cao bao nhiêu và có những gì trong đó. Cho dù chúng
ta có thể dùng tốc độ của trí tưởng tượng để ngày đêm đi về biên giới của vũ
trụ thì suốt đời chúng ta cũng không thể nào đi hết, vì vũ trụ do Đức Chúa Trời
dựng nên không có biên giới. Ngay cả trong con người chúng ta, chúng ta
cũng chưa biết rõ hết những diệu kỳ trong cơ thể của mình. Nếu những gì
mắt chúng ta có thể thấy mà chúng ta còn chưa hiểu rõ thì làm sao chúng ta có
thể hiểu một cách tường tận về Đức Chúa Trời là Đấng đã dựng nên mọi sự đó
được? Chúng ta đành chấp nhận trí óc mình hữu hạn và lấy lòng đơn thành
tin rằng Đức Chúa Trời có ba ngôi, vì Kinh Thánh đã dạy chúng ta như thế.
Chúng ta có thể tạm dùng biểu tượng của nước (H2O)
để minh họa về lẽ đạo Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Nước dù ở thể lỏng, thể rắn
(nước đá), hay thể khí (hơi nước), thì cũng đều là nước (H2O)
cả. Một nhưng cũng là ba và ba cũng là một. Sự rắc rối là ở chỗ
nầy, nhưng đó lại là sự thật.
Hỡi I-sơ-ra-ên, xin hãy nghe: Chúa, Đức Chúa Trời chúng ta,
là Chúa độc nhất vô nhị. Anh chị em hãy yêu kính Chúa, Đức Chúa Trời của
anh chị em, một cách hết lòng, hết linh hồn, và hết sức mình. (Phục Truyền
6:4).
Đức Chúa Trời phán, “Chúng Ta hãy dựng nên loài người theo
hình ảnh Chúng Ta, và theo hình dạng Chúng Ta, để chúng quản trị loài cá biển,
loài chim trời, loài súc vật, loài thú rừng trên đất, và mọi loài vật bò trên
mặt đất.”(Sáng Thế 1:26).
Còn Đức Chúa Giê-su, khi chịu báp-têm xong, Ngài bước lên
khỏi nước; và kìa, các từng trời mở ra, Ngài thấy Đức Thánh Linh của Đức Chúa
Trời ngự xuống trên Ngài, như một chim bồ câu; và có tiếng từ trời phán rằng,
“Đây là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta hoàn toàn.”
(Ma-thi-ơ 3:16-17).
17. Nếu đã biết Đức Chúa Trời là
Đấng như thế thì chúng ta nên có
thái độ
nào đối với Ngài?
Chúng ta phải yêu kính Ngài, thờ phượng Ngài, và làm rạng
danh Ngài.
1) Yêu kính Chúa
Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết trí, và hết sức mà yêu kính
Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.
(Mác 12:30).
2) Thờ phượng Chúa
Xin hãy đến, chúng ta hãy sấp mình xuống thờ lạy Chúa;
Chúng ta hãy quỳ gối xuống trước mặt Chúa, Đấng Tạo Hóa của
chúng ta.
Vì Ngài là Đức Chúa Trời của chúng ta,
Chúng ta là con dân của đồng cỏ
Ngài,
Là đàn chiên do tay Ngài dìu dắt.
(Thánh Thi 95:6-7).
Đức Chúa Giê-su phán với nó, “Hỡi Sa-tan, hãy lui ra khỏi Ta.
Vì có lời chép rằng, 'Ngươi chỉ thờ lạy Chúa là Đức Chúa Trời
của ngươi, và chỉ phục vụ một mình Ngài mà thôi'.”
(Ma-thi-ơ 4:10).
Bây giờ nếu anh chị em không muốn thờ Chúa, thì hôm nay anh
chị em muốn thờ thần nào, cứ chọn lấy mà thờ, hoặc các thần mà tổ phụ anh chị
em đã thờ bên kia sông Cả, hoặc các thần của dân A-mô-ri trong xứ anh chị em
đang sống đây; nhưng riêng phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tiếp tục thờ
Chúa. (Giô-suê 24:15).
3) Làm rạng danh Chúa
Vậy, anh chị em hoặc ăn, hoặc uống, hoặc làm sự chi khác,
hãy làm tất cả vì vinh hiển của Đức Chúa Trời. (1 Cô-rinh-tô 10:31).
Con người là tạo vật do Đức Chúa Trời dựng nên theo hình ảnh Ngài.
Con người thông minh hơn muôn loài vạn vật, vì Đức Chúa Trời không những phú
cho con người một thân xác mà còn có linh hồn.
Bài
2
CON NGƯỜI
1. Con người là gì?
Con người là tạo vật do Đức Chúa Trời dựng nên theo hình ảnh
Ngài. Con người thông minh hơn muôn loài vạn vật, vì Đức Chúa Trời không
những phú cho con người một thân xác mà còn có linh hồn.
Vậy Đức Chúa Trời dựng nên loài người theo hình ảnh
Ngài. Ngài dựng nên loài người theo hình ảnh Đức Chúa Trời. Ngài
dựng nên người nam và người nữ.
(Sáng Thế 1:27).
ChúaĐức Chúa Trời dùng bụi đất nắn nên con người, rồi hà
sinh khí vào lỗ mũi, con người bèn trở nên một sinh vật có linh hồn.
(Sáng Thế 2:7).
2. Thế sao ngày nay nhiều người
cho rằng con người tiến hóa từ
giống khỉ
mà thành. Điều đó có đúng không?
Theo đức tin của chúng ta và
theo Kinh Thánh thì điều đó không đúng. Khỉ là loài vật, còn chúng ta là
loài người. Giả như có ai nói rằng, “Ông tổ của bạn là một con khỉ đực,”
có lẽ chúng ta cảm thấy tự ái bị tổn thương ngay. Lương tri tự nhiên của
chúng ta lập tức không chấp nhận điều ấy. Hơn nữa, tự cổ chí kim, cho dù
khoa học đã khám phá ra nhiều điều tuyệt vời, chưa hề có ai có thể chứng minh
được khỉ biến thành người hoặc khỉ sinh ra người bao giờ. Đó là một giả
thuyết sai lầm nhằm phủ
nhận lẽ thật về Đức Chúa Trời, Đấng dựng nên muôn loài vạn vật, trong đó có
loài người chúng ta. Kinh Thánh đã dạy rõ rằng loài nào sinh ra loài
nấy. Loài khỉ không thể sinh ra loài người hay từ từ tiến hóa qua nhiều
thế hệ mà thành người được.
Đức Chúa Trời phán, “Nước phải có đầy dẫy sinh vật, phải có
chim bay trên đất trong bầu trời của cõi không trung.” Vậy Đức Chúa Trời
tạo dựng những thủy quái lớn, những sinh vật di động và sinh sản trong
nước tùy theo loại, và các loài chim có cánh tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy
điều đó là tốt đẹp. Đức Chúa Trời ban phước cho chúng,
mà rằng, “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều và làm cho đầy trong nước biển; các
chim chóc cũng hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều trên đất.” Vậy có buổi chiều
và buổi sáng, ngày thứ năm.
Đức Chúa Trời phán, “Đất phải sinh các sinh vật tùy
theo loại: các súc vật, các sinh vật bò trên mặt đất, và các thú rừng trên đất
tùy theo loại,” thì có như vậy. Đức Chúa Trời dựng nên các thú rừng trên đất
tùy theo loại, các súc vật tùy theo loại, và mọi loài bò trên mặt đất tùy theo
loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp.
(Sáng Thế 1:20-25).
3. Linh hồn là gì?
Linh hồn là phần tinh anh, không thấy được, nhưng thực hữu,
và trường tồn của con người.
4. Có thật là có linh hồn không?
Nếu không có linh hồn, con người sẽ không ra người nữa mà
chỉ là cái xác không hồn. Linh hồn ở trong con người mới làm con người
trở nên có giá trị.
5. Linh
hồn ở đâu?
Linh hồn ở trong thân xác chúng ta. Khi linh hồn ra
khỏi thân xác, con người chỉ còn là cái xác chết, hết có giá trị, và ai cũng
sợ.
6. Làm thế nào tôi biết rằng tôi
có linh hồn?
Nếu bạn có lý trí, ý chí, tình cảm, và lương tâm, bạn biết
rằng bạn đang có một linh hồn. Linh hồn là phần tinh anh, vô hình, vô
dạng, không thể thấy được bằng mắt, nhưng lại rất thực của con người bạn.
Lý trí, ý chí, tình cảm, và lương tâm là những phần của linh hồn. Bạn
không thấy những phần đó, nhưng chúng có thật. Những điều như tự ái, giận
hờn, yêu thương, buồn bã, vui mừng, cảm động, v.v. là những biểu lộ của linh
hồn.
7. Linh hồn sẽ tồn tại bao lâu?
Linh hồn sẽ trường tồn mãi mãi, hoặc ở trong thân xác bạn,
hoặc ở ngoài thân xác bạn. Vì linh hồn không phải là vật chất, nên linh
hồn sẽ không bị mai một với thời gian.
8. Linh hồn sẽ ở trong thân xác
bao lâu?
Linh hồn sẽ ở trong thân xác bạn cho đến khi bạn qua
đời. Qua đời hay chết tức là lúc linh hồn lìa khỏi thân xác.
9. Linh hồn lìa khỏi thân xác rồi
sẽ đi đâu?
Có hai
trường hợp xảy ra:
1) Người tin thờ Chúa
Khi một người đã tin thờ Chúa và cứ trung tín thờ phượng
Ngài cho đến lúc qua đời thì khi lìa đời linh hồn của người đó sẽ được cứu rỗi,
tức là được tiếp về với Chúa trên thiên đàng.
Do chúng ta có niềm tin vững vàng đó, nên chúng ta mong muốn
thà được rời khỏi thân xác nầy để về ở với Chúa là hơn. Thế thì dù ở
trong thân xác nầy, dù ra khỏi, mục đích của chúng ta vẫn là làm vui lòng Chúa.(2 Cô-rinh-tô 5:8-9).
Tôi đang bị giằng co giữa hai điều: một đàng thì muốn được
ra đi để ở với Chúa Cứu-thế, đó là điều tốt hơn cho tôi, một đàng thì cứ tiếp
tục ở lại trong thân xác, đó là điều cần thiết hơn cho anh chị em.(Phi-líp 1:23-24).
2) Người không tin thờ Chúa
Khi một người không tin Chúa qua đời, linh hồn của người ấy
sẽ được đem về một nơi Đức Chúa Trời đã dành sẵn, để ở đó chờ ngày phán xét của
Ngài.
10. Thế
tại sao có người cho rằng linh hồn của người chết biến thành
ma và trở
về thăm họ?
Không phải vậy đâu. Đó chỉ là Sa-tan và các quỷ sứ của
nó lợi dụng lòng tin và sự sợ hãi của người ta để giả làm hồn của người chết
hiện về hầu người ta tin như thế mà thôi. Sa-tan và các quỷ sứ của nó
thường làm mọi cách để gạt người ta, hầu họ tin bất cứ chuyện gì, thờ phượng
bất cứ ai, miễn là đừng tin tưởng và thờ phượng Ba Ngôi Đức Chúa Trời là
được. Vì thế Đức Chúa Trời mới gọi con quỷ chúa là Sa-tan. Sa-tan có nghĩa là “kẻ chống
đối,” “kẻ vu khống,” và “kẻ lừa
dối.” Chúng ta phải ý thức bản chất của nó và âm mưu thâm độc
của nó.
11. Phải
chăng linh hồn vốn có từ kiếp trước và luân hồi vào thân
thể ta
bây giờ?
Không đâu. Kinh Thánh không hề nói cho chúng ta biết
con người có kiếp trước nào cả. Nếu chúng ta đã có từ kiếp trước, tại sao
không ai nhớ kiếp trước mình là ai và mình đã làm gì? Một vài tín ngưỡng
cho rằng sau khi chết linh hồn bị cho uống thuốc lú, nên không còn nhớ gì nữa
trước khi đi đầu thai. Ngoài ra họ còn tin rằng bây giờ mình là đàn ông,
nhưng kiếp trước có thể là đàn bà, hoặc có thể là một con vật nào đó tu luyện
mà thành. Chưa ai trong chúng ta thấy một con vật nào tu cả. Giả dụ
thuyết có tiền kiếp là đúng thì thử hỏi tại sao kiếp nầy ta phải tu hành khắc
khổ cho một kiếp sau mà ta không biết kiếp sau mình sẽ là ai; người trong tương
lai ấy cũng không biết gì đến mình, không nhớ gì đến mình, một kẻ đã khổ công
tu hành để cho người ấy được hưởng? Điều ấy thật không hợp tình hợp lý
chút nào. Hơn nữa, người ta dạy con người phải tu mãi hết kiếp nầy qua
kiếp khác cho đến khi tan biến vào vũ trụ mới thôi. Đó là mục đích tối hậu
của đường tu. Vậy thử hỏi, tại sao tôi phải tu hành khắc khổ suốt đời để
cuối cùng tôi tự diệt mất chính mình? Điều ấy quả là thật khó hiểu!
Riêng chúng ta, chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời dựng nên
A-đam, rồi hà sinh khí vào ông, tức ban linh hồn cho tổ phụ loài người.
Từ đó cứ theo công lệ sinh hóa mà thân xác và linh hồn loài người lưu truyền từ
đời nọ sang đời kia theo quy luật Đức Chúa Trời đã tạo ra, chứ không có luân
hồi gì cả.
Tất cả những người thuộc về Gia-cốp đi vào Ai-cập, tức những
con cháu từ ông sinh ra, không kể các nàng dâu của ông, tổng cộng được sáu mươi
sáu người (linh hồn).
(Sáng Thế 46:26).
Các chữ “người” trong câu kinh văn nầy trong tiếng Hebrew là
“linh hồn.”
Vì Lê-vi vẫn còn ở trong lòng tổ phụ ông, khi Mên-chi-xê-đéc
ra đón gặp tổ phụ ông. (Hê-bơ-rơ
7:10).
12. Có người cho rằng Đức Chúa Trời dựng nên linh hồn mỗi người
mỗi khi
có một thai nhi hình thành, thì chúng ta nghĩ làm sao?
Dù một vài người có trích dẫn một vài câu trong Kinh Thánh
để lập luận rằng Đức Chúa Trời trực tiếp dựng nên linh hồn mỗi người khi có một
thai nhi thành hình thì lập luận ấy hoàn toàn sai lầm, bởi họ hiểu sai ý của
các câu kinh văn đó. Những câu ấy đề cập đến sự dựng nên gián tiếp của
linh hồn; tức linh hồn từ A-đam theo công lệ sinh hóa mà lưu truyền và thành
hình từ cha mẹ của mỗi người, chứ không phải mỗi khi một thai nhi thành hình
thì Đức Chúa Trời dựng nên một linh hồn nữa ngay lúc đó. Bởi lẽ, khi
một người nam và một người nữ ngoại tình, hoặc một thiếu nữ
bị kẻ xấu hãm hiếp, chẳng lẽ Đức Chúa Trời cũng tán thành việc ấy mà tạo dựng
một linh hồn cho đứa con do sự giao hợp bất chính và tội lỗi như thế hay
sao? Đức Chúa Trời không bao giờ làm như vậy.
13. Thế còn thân xác của con người
thì sao?
Kinh Thánh dạy rằng thân thể chúng ta là đền thờ của Đức
Chúa Trời, nơi Chúa ngự; vì thế chúng ta phải giữ thân thể mình cho thánh sạch.
Anh chị em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời
và Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời đang ngự trong anh chị em sao? Nếu có
ai muốn phá huỷ đền thờ của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ phá huỷ kẻ
ấy. Vì đền thờ của Đức Chúa Trời là thánh, mà chính anh chị em là đền
thờ.(1 Cô-rinh-tô 3:16-17).
Anh chị em không biết rằng thân thể anh chị em là đền thờ
của Đức Thánh Linh, Đấng đang ngự trong anh chị em, Đấng Đức Chúa Trời ban cho
anh chị em, và anh chị em không còn thuộc về chính mình nữa sao? Vì anh
chị em đã được mua bằng giá rất cao rồi. Vậy hãy lấy thân thể mình làm
vinh hiển Đức Chúa Trời.(1 Côr.
6:19-20).
Vậy, thưa anh chị em, bởi ơn thương xót của Đức Chúa Trời,
tôi nài khuyên anh chị em hãy dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, một
của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời. Đó là cách thờ phượng phải lẽ của anh chị
em. (Rô-ma 12:1).
14. Con người có giá trị như thế
nào trước mặt Đức Chúa Trời?
Con người là loài được tạo dựng cao quý nhất trước mặt Đức
Chúa Trời. Trong muôn loài vạn vật do Đức Chúa Trời dựng nên, chỉ con
người là loài được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời và được Ngài ban
cho quyền tự do chọn lựa để định đoạt số phận của mình, kể cả quyền tự do chọn
lựa thờ phượng Ngài hay không. Vì thế, việc chúng ta sử dụng quyền tự do
Đức Chúa Trời ban cho để quyết định thờ phượng Ngài là điều rất có ý nghĩa đối
với Ngài.
Vậy Đức Chúa Trời dựng nên loài người theo hình ảnh
Ngài. Ngài dựng nên loài người theo hình ảnh Đức Chúa Trời. Ngài
dựng nên người nam và người nữ.
(Sáng Thế
1:27).
ChúaĐức Chúa Trời truyền lịnh cho con người, “Ngươi được tự
do ăn mọi cây trái trong vườn, nhưng về cây biết điều thiện và điều ác ngươi
không được ăn đến, vì hễ ngày nào ngươi ăn trái cây ấy, ngươi chắc sẽ chết.”(Sáng Thế 2:16-17).
15. Nếu một người qua đời trước
khi có dịp tin thờ Chúa thì số phận
đời đời
của linh hồn người đó sẽ ra sao?
Bây giờ chúng ta không rõ, vì Kinh Thánh không nói rõ ràng
và quả quyết về việc ấy. Nhưng Kinh Thánh có dạy rằng Đức Chúa Trời sẽ có
một ngày phán xét. Đến ngày ấy, mọi người tự cổ chí kim sẽ phải trình
diện trước tòa phán xét của Ngài. Bấy giờ Ngài sẽ xét xử một cách công
minh cho mỗi người. Số phận đời đời của mỗi người như thế nào lúc bấy giờ
chúng ta sẽ rõ và không ai sẽ có thể phàn nàn gì được cả.
Điều quan trọng là ai đã tin thờ Chúa rồi, người ấy sẽ khỏi
phải ứng hầu trước toà phán xét của Đức Chúa Trời. Vì thế chúng ta nên nổ
lực khuyên mời mọi người tin thờ Chúa, để họ khỏi phải bị ứng hầu trước tòa
phán xét của Đức Chúa Trời. Đó là việc thiện lớn nhất trong các việc
thiện mà chúng ta có thể làm cho người khác.
Đoạn tôi thấy một chiếc ngai trắng lớn và thấy một Đấng ngồi
trên ngai đó. Trước mặt Ngài, đất và trời đều biến mất, chẳng còn thấy
đâu nữa. Tôi cũng thấy những người chết, cả lớn lẫn nhỏ, đứng trước ngai,
và các sách đều mở ra. Cũng có một cuốn sách khác được mở ra, đó là sách
sự sống. Những người chết đều được xét xử tuỳ theo những việc họ làm, như
đã ghi trong các sách đó.
(Khải 21:11-12).
Bởi vậy, hiện nay ai ở trong Chúa Cứu-thế Giê-su sẽ không
còn bị kết tội nữa. (Rô-ma
8:1).
16. Nếu cha mẹ đã qua đời mà con
cháu không cúng giỗ, như vậy có
phải là
đã bất hiếu quá đi chăng?
Thờ cúng tổ tiên là phong tục do người Trung Hoa truyền cho
chúng ta khi họ đô hộ chúng ta. Chúng ta cần phải hiểu “Hiếu” là thế
nào? Nếu dựa theo gương hai mươi bốn người có hiếu (Nhị Thập
Tứ Hiếu) danh tiếng thời xưa bên Trung Hoa mà làm theo, thì hiếu là
biết lo phụng dưỡng cha mẹ, làm cho cha mẹ vui lòng khi cha mẹ còn sống, và nhớ
thương cha mẹ khi cha mẹ đã qua đời. Vì khi cha mẹ chết rồi, thì dù con
cái có làm tiệc lớn để cúng giỗ bằng những mâm cao cỗ đầy bao nhiêu, cha mẹ
cũng không về hưởng được miếng nào.
Còn nếu bảo hiếu là khi cha mẹ qua đời, ta phải tôn cha mẹ
lên làm thần, rồi thờ lạy cha mẹ như thờ lạy Đức Chúa Trời và còn tin rằng cha
mẹ có quyền ở cõi âm về phù hộ và ban phước cho chúng ta, thì đó thật là một
niềm tin sai lầm. Bởi nếu cha mẹ thật sự linh thiêng và có quyền phép như
chúng ta tưởng, lẽ nào cha mẹ nỡ để cho con cháu của họ hằng năm đều cúng giỗ
và cầu xin họ cứ phải chịu khổ sở triền miên như chúng ta thấy hiện nay trên
khắp đất nước chúng ta?
Ngoài ra, các dân tộc thờ phượng Chúa, đa số là các dân tộc
Tây Phương, không thờ cúng tổ tiên giống như người mình, hóa ra họ bất hiếu
theo quan niệm của chúng ta, nhưng sao cuộc sống của họ dường như tự do hơn và
sung túc hơn dân Việt chúng ta rất nhiều. Họ có thể viện trợ và giúp đỡ
được nhiều dân tộc khác ở nhiều phương diện. Như vậy quan niệm phải cúng
giỗ cha mẹ mới là có hiếu, mới được cha mẹ ở cõi âm về phù hộ ban phước cho
công ăn việc làm và việc học hành thi cử của mình chưa hẳn là đúng. Điều
đó chẳng qua là tục lệ xã hội ngày xưa do các thầy cúng người Trung Hoa qua đô
hộ đất nước chúng ta bày vẽ trong lúc dân tộc chúng ta vốn nể trọng họ là kẻ có
quyền nên phải tin theo mà thôi. Thời gian trôi qua, chúng ta đã quen với
tập tục ấy; bây giờ việc đó đã trở thành một tập quán, rất khó bỏ đi, chứ không
hẳn việc cúng giỗ như thế mới là cách tốt nhất để bày tỏ lòng hiếu thảo.
Ngày nay vì áp lực của xã hội và của một vài tôn giáo cho
nên nhiều người cứ thế mà làm theo, chứ không chịu xét lại, và dường như vì áp
lực của xã hội, không ai dám nghĩ khác đi hoặc dám làm gì khác hơn cho đúng hơn
và cho văn minh hơn. Ước mong rồi đây dân tộc chúng ta sẽ có đủ can đảm
sửa đổi lại cho đúng và tốt hơn, bỏ đi những tàn dư không đúng đã du nhập vào
văn hóa của chúng ta trong thời kỳ bị đô hộ, mà tỏ lòng hiếu thảo một cách thật
cụ thể và có ý nghĩa với ông bà cha mẹ như Lời Chúa dạy.
Ngoài ra, về việc thờ cúng tổ tiên, chúng ta đã theo thói
tục do người Trung Hoa bày vẽ nên chỉ thờ phượng đến năm đời; như thế đời thứ
sáu và những đời trước nữa thì sao? Những đời trước cũng là tổ tiên của
chúng ta vậy. Nếu truy cho cùng thì vị nguyên tổ của chúng ta chính là
Đức Chúa Trời, Đấng đã tạo nên loài người. Thờ phượng Đức Chúa Trời chính
là thờ phượng tổ tiên đúng nghĩa nhất. Thế nên, ông bà cha mẹ là những
bậc chúng ta phải yêu kính, mến thương, tôn trọng, và tưởng nhớ, chứ không nên
thờ phượng như thờ một vị thần, vì các vị không phải là thần.
17. Nếu vậy thì thế nào là sống
cho tròn đạo hiếu với ông bà cha mẹ
theo
tinh thần Đạo Chúa dạy?
Chúng ta
tin rằng có hiếu là..
1) Khi cha mẹ còn sống
Lúc còn bé, chúng ta phải vâng lời cha mẹ. Khi lớn
khôn, chúng ta phải biết kính yêu và giúp đỡ cha mẹ. Khi cha mẹ trở nên
già yếu, chúng ta phải biết phụng dưỡng, thăm nom, chăm sóc, và an ủi cha
mẹ. Con cháu phải biết làm sao để ông bà cha mẹ vui lòng và hãnh diện về
mình; chẳng hạn như ráng ăn học thành tài, hoặc làm ăn lương thiện, hoặc ăn ở
cho có đạo nghĩa giữa đời, v.v.. Khi có món ngon vật lạ phải biết dâng
biếu cho cha mẹ dùng, chứ đừng để “lúc sống thì không cho ăn, đến khi đã chết làm văn
tế ruồi.” Khi cha mẹ già yếu, không có tiền bạc nhiều, con
cháu có tiền của thì phải biết giúp đỡ cha mẹ, chứ đừng ích kỷ, coi tiền bạc
trọng hơn cha mẹ. Đừng để cha mẹ lúc già yếu sống trong quên lãng và đói
khổ cơ hàn, đợi khi cha mẹ qua đời thì làm mâm cao cỗ đầy, rước thầy về cúng
giỗ linh đình, mời nhiều người đến ăn uống, để chứng tỏ rằng mình có hiếu, hầu
che mắt thế gian. Đó là điều chẳng nên làm theo niềm tin của chúng
ta.
2) Khi cha mẹ qua đời
Khi cha mẹ qua đời, con cháu phải hiệp nhau lo tang lễ cho
trọng thể theo khả năng tài chính của mình. Ngày cha mẹ qua đời, tuy biết
rằng ngày ấy linh hồn cha mẹ mình về với Chúa, nếu cha mẹ lúc sống là con cái
Chúa và trung tín với Ngài cho đến chết, thì dù sao cũng là ngày buồn. Đó
là tình cảm tự nhiên Chúa phú cho chúng ta. Con cháu không nên tổ chức
linh đình để phô trương tiền của, và cũng không nên quá khích mà bảo rằng đó là
ngày vui, (vì linh hồn cha mẹ đã được về với Chúa), như một vài người
quá khích và cực đoan trong chúng ta thường nói.
3) Sau khi cha mẹ đã qua đời rồi
Sau khi cha mẹ đã qua đời, con cháu phải tiếp tục giữ gìn danh
thơm tiếng tốt của cha mẹ mình. Ai nấy phải ráng làm vinh hiển danh Chúa
để được rạng rỡ tông môn. Con cháu nên chọn ngày thuận tiện để tổ chức
ngày tưởng nhớ cha mẹ. Con cháu nên mời mục sư hay các chức viên trong
hội thánh đến, dùng Lời Chúa khuyên nhủ gia tộc tiếp tục noi gương sáng của cha
mẹ mà sống ở đời cho phải đạo làm người và làm hiển vinh danh Chúa. Trong
dịp nầy, con cháu cũng hãy nhắc lại công ơn của cha mẹ và những gương sáng của
cha mẹ lúc sinh tiền, như nếp sống đạo đức, lòng hy sinh, lòng thương người,
lòng trung tín với Chúa, tinh thần hết lòng hầu việc Chúa, v.v. để con cháu lấy
làm hãnh diện và tiếp tục noi theo. Thiết tưởng, nếu chúng ta làm được
như thế, tức là chúng ta có hiếu thật và rất phù hợp với tinh thần của Đạo Chúa
vậy.
Danh từ
“tội lỗi” theo nghĩa đen trong Kinh Thánh có nghĩa là “sai mục tiêu”
hoặc “vượt qua lằn cấm.” Nói một cách khác, tội lỗi là tình trạng
của con người khi sử dụng quyền tự do của mình sống sai mục đích Đức Chúa Trời
đã định khi Ngài dựng nên chúng ta. Tội lỗi là làm những điều Đức Chúa
Trời không muốn chúng ta làm, và không làm những điều Đức Chúa Trời muốn chúng
ta làm, tức không đạt tiêu chuẩn Đức Chúa Trời đã định cho chúng ta phải đạt.
Bài 3
Tội
LỖi
1. Tội lỗi là gì?
Danh từ “tội lỗi” theo nghĩa đen trong Kinh Thánh có nghĩa
là “sai mục tiêu” hoặc “vượt qua lằn cấm.” Nói một cách
khác, tội lỗi là tình trạng của con người khi sử dụng quyền tự do của mình sống
sai mục đích Đức Chúa Trời đã định khi Ngài dựng nên chúng ta. Tội lỗi là
làm những điều Đức Chúa Trời không muốn chúng ta làm, và không làm những điều
Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm, tức không đạt tiêu chuẩn Đức Chúa Trời đã định
cho chúng ta phải đạt.
2. Đức Chúa Trời muốn chúng ta
làm điều gì?
Đức Chúa
Trời muốn chúng ta thờ kính Ngài và yêu thương nhau; tức
thờ Chúa
và yêu người.
‘Ngươi phải hết lòng, hết
linh hồn, hết trí, và hết sức mà yêu kính Chúa, Đức Chúa Trời của ngươi.'
Điều răn thứ hai là, 'Ngươi phải yêu người lân cận như mình.' Chẳng có
điều răn nào lớn hơn hai điều răn đó.(Mác 12:30-31).
3. Còn tiêu chuẩn Đức Chúa Trời
đã định đó như thế nào?
Tiêu chuẩn Đức Chúa Trời đã định cho chúng ta là mỗi người phải
trở thành một người hoàn toàn và trọn vẹn như A-đam và Ê-va lúc mới được dựng
nên ở trong vườn Ê-đen. Điều đó có nghĩa là ai nấy phải trở nên trọn vẹn
như chính Đức Chúa Trời.
Vậy các ngươi phải trở nên trọn vẹn như Cha các ngươi ở trên trời
là Đấng trọn vẹn vậy. (Ma-thi-ơ 5:48).
4. Nói như thế thì xưa nay đã có
ai hoàn toàn trọn vẹn hoặc không
có tội
chăng?
Ngoại trừ Đức Chúa Giê-su thì ai ai cũng đều có tội, không một
người nào hoàn toàn hay trọn vẹn cả.
Đức Chúa
Giê-su phán,
“Ai trong các ngươi có thể chứng minh rằng Ta có tội được chăng?” (Giăng 8:46).
Khi xử
án Chúa,
Phi-lát lại nói, “Nhưng người nầy đâu có tội gì?”
(Ma-thi-ơ 27:23).
Sau hơn
ba năm gần gũi bên Chúa, Thánh Phi-rơ đã xác quyết,
Ngài không hề phạm tội, trong miệng Ngài, chẳng tìm được một lời
dối trá.”(1 Phi-rơ 2:22).
Trong
khi chúng ta thì Kinh Thánh chép,
Vì
mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất vinh hiển của Đức Chúa
Trời.(Rô-ma 3:23).
Chẳng
có một người công chính nào cả, dù một người cũng
không. (Rô-ma 3:10).
5. Nếu một người chưa hề làm điều
gì trái với lương tâm, và cũng
không vi
phạm luật lệ nào của đất nước mình đang sống, thì
người đó
cũng bị kể là có tội sao?
Đúng vậy. Theo tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời thì một người có
thể phạm tội trong tư tưởng hoặc bằng lời nói của mình, chứ không nhất thiết
phải đợi đến khi biểu lộ qua hành động mới bị kể là có tội.
Nhưng Ta nói cùng các ngươi, hễ ai nhìn một phụ nữ mà động lòng
thèm muốn, thì trong lòng đã phạm tội ngoại tình cùng người ấy rồi. (Ma-thi-ơ
5:28).
Thành ra, trước mặt Chúa, ai cũng là người có tội cả. Hơn
nữa, một người có thể không phạm tội với luật lệ của quốc gia, nhưng đã phạm
tội với luật lệ của Đức Chúa Trời. Ví dụ như Đức Chúa Trời đã dựng nên
chúng ta, ban cho chúng ta sự sống và mọi sự để chúng ta hưởng mà chúng ta
không kính thờ Ngài, như vậy là có tội với Ngài rồi.
6. Có mấy thứ tội?
Có hai
thứ tội; đó là nguyên tội và kỷ tội.
7. Nguyên tội là gì?
Nguyên
tội là tội do tổ tông truyền lại cho mình, khiến cho chúng ta
có bản năng phạm tội. Khi
chúng ta thấy một đứa trẻ lớn lên và tự nhiên biết nói dối, dù không ai dạy cho
nó nói dối cả; chúng ta bảo tính nói dối là tội do tổ tông truyền lại.
Kìa,
vừa mới sinh ra con đã là người có tội;
Con đã
là tội nhân từ lúc mẹ con vừa mới có thai con.
(Thánh
Thi 51:5).
8. Kỷ tội là gì?
Kỷ tội
là tội do chính mình phạm lấy.
9. Tổ tông loài người đã làm gì
mà phạm tội?
Tổ tông loài người đã không vâng lời Chúa, nhưng nghe theo lời quỷ
Sa-tan, ăn trái cấm trong vườn địa đàng, nên nọc độc tội lỗi đã xâm nhập vào
đời sống ông bà, rồi từ đó phát triển và di truyền cho cả nhân loại.
10. Hậu quả của người có tội sẽ
ra sao?
Hậu quả trước tiên là bị cắt đứt mối tương giao với Đức Chúa
Trời. Đó là sự chết thuộc linh. Hậu quả sau cùng là bị hình phạt
đời đời trong hỏa ngục, nếu cứ một mực cứng lòng và khước từ ơn cứu rỗi của Đức
Chúa Trời.
Đức Chúa Trời đã sai Con Một Ngài, Đức Chúa Giê-su, giáng thế làm
người, chịu hình phạt thay cho chúng ta. Đức Chúa Trời muốn chúng ta tin
nhận điều ấy, nhưng nếu chúng ta cứ cứng lòng, không tin, thì chỉ còn đợi chờ
ngày chịu hình phạt mà thôi.
Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, còn quà tặng của Đức Chúa
Trời là sự sống đời đời trong Chúa Cứu-thế Giê-su, Chúa chúng ta.(Rô-ma 6:23).
Còn những kẻ hèn nhát, những kẻ không tin, những kẻ làm những
chuyện gian ác, những kẻ giết người, những kẻ gian dâm, những kẻ làm tà thuật,
những kẻ thờ thần tượng, và tất cả những kẻ nói dối, phần của chúng sẽ là: ở
trong hồ có lửa và lưu huỳnh cháy hừng hực. Đó là sự chết thứ hai.”(Khải Huyền 21:8).
Ai tin Con thì được sự sống đời đời. Ai không chịu tin Con
thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời ở trên người
đó. (Giăng 3:36).
11. Nếu một trẻ thơ chưa biết
phân biệt phải trái mà đã sớm qua
đời,
liệu Đức Chúa Trời có kể em đó là có tội và bỏ em vào hỏa
ngục
không?
Bây giờ thì chúng ta không biết rõ về việc nầy, bởi Kinh Thánh
không nói rõ về việc ấy. Tuy nhiên Kinh Thánh cho chúng ta biết, Đức Chúa
Trời là Đấng công chính và yêu thương. Đến ngày cuối cùng, chúng ta sẽ
biết rõ quyết định của Đức Chúa Trời về số phận đời đời của em bé đó. Một
khi chúng ta biết rồi, chắc chắn chúng ta sẽ hài lòng. Còn bây giờ chúng
ta không thể xác quyết được số phận đời đời của em bé ấy sẽ ra thế nào.
Điều chúng ta biết chắc là một người đủ sự khôn hiểu biết và được biết về Đức
Chúa Trời nhưng nhất định không chịu thờ phượng Ngài, cứ nại lý do nầy hay lý
do khác mà từ chối, thì người ây chắc chắn sẽ bị xét xử trước tòa án của Đức
Chúa Trời trong ngày cuối cùng.
12. Nếu một người sớm nhận biết
mình có tội nên quyết định tu tâm
dưỡng
tánh, làm lành lánh dữ cho đến chết, mà không cần tin thờ
Chúa,
liệu như thế người ấy có chuộc được hết nguyên tội và kỷ
tội của mình không?
Người có tội biết hối cải, bỏ tà quy chánh, là điều tốt và đáng
khen. Nhưng việc thiện là việc mọi người đương nhiên phải làm, còn những
tội lỗi người ấy đã phạm trước khi hối cải thì đã phạm rồi. Tuy từ đó về
sau người ấy không phạm tội nữa, nhưng không vì thế mà những tội cũ tự nhiên
được xóa hết, hoặc có thể đoái công chuộc tội được.
Ví như một người đã phạm tội giết người cướp của, nhưng chưa bị
bắt, rồi người ấy đi phương xa mà ở. Tuy sau đó người ấy sớm biết hối hận
và quyết định trong lòng rằng từ đó về sau, mãi cho đến chết, người ấy nhất
định sẽ không cướp của giết người nữa; trái lại người ấy sống ngay lành ở địa
phương mới và lấy của bất nghĩa ấy ra làm việc thiện, nhưng không vì thế mà tội
giết người cướp của người ấy ngày trước coi như không có, hay tội ác ấy nhờ
những việc thiện mới làm sau nầy mà được sạch. Nếu công lý của loài người
mà còn không dung thứ một kẻ như thế thì lẽ nào loài người có thể thoát khỏi
công lý của Đức Chúa Trời được? Việc thiện chúng ta làm không thể giải
trừ tội lỗi chúng ta đã có.
Mọi việc công chính của chúng con như y phục nhớp nhúa.
(I-sa-gia 64:6).
13. Xưa nay đã có ai tự cứu lấy
mình thoát khỏi quyền lực của tội lỗi
được
chưa?
Ngoại trừ Đức Chúa Giê-su là Ngôi Hai Đức Chúa Trời, Đấng hoàn
toàn trọn vẹn, thiên hạ tự cổ chí kim đều có tội; chưa hề có ai tự cứu mình
thoát khỏi quyền lực của tội lỗi bao giờ. Bất kể một người tu hành bao
lâu, người ấy cũng không thể nhờ tu mà giải thoát mình khỏi quyền lực của tội
lỗi được.
Người Ê-thi-ô-pi có thể thay đổi được màu da mình, hay con beo có
thể thay đổi được các đốm trên mình nó chăng? Nếu được thì các ngươi là những
kẻ đã quen làm điều ác rồi cũng có thể làm điều thiện được.(Giê-rê-mi 13:23)
14. Như vậy thì người ta phải làm
sao để được sạch tội?
Muốn được sạch tội và được thoát khỏi quyền lực của tội lỗi chúng
ta phải nhờ cậy hoàn toàn vào phương pháp cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã thực hiện
cho chúng ta trong Đức Chúa Giê-su.
15. Phương pháp cứu rỗi đó như
thế nào?
Đó là phương pháp thay thế. Đáng lý ra, tội của chúng ta làm
thì chúng ta phải chịu lấy hình phạt. Nhưng Đức Chúa Trời yêu thương
chúng ta, Ngài không muốn cho chúng ta bị phạt đau đớn dưới hỏa ngục, nên hơn
2.000 năm trước, Ngài đã sai Con Một Ngài, Đức Chúa Giê-su, giáng thế làm người
để chịu hình phạt thay cho chúng ta trên thập tự giá. Đức Chúa Giê-su đã
chịu chết, chịu chôn trong mồ mả; ngày thứ ba Ngài đã sống lại; Ngài đã thăng
thiên về trời; rồi đây Ngài sẽ trở lại.
Nếu chúng ta lấy lòng thành tin nhận những điều Đức Chúa Trời đã
làm cho mình thể hiện qua Đức Chúa Giê-su, ăn năn lìa bỏ tội lỗi, cảm tạ Đức
Chúa Trời, rồi mời Đức Chúa Giê-su ngự vào lòng để làm Chúa và Chủ cuộc đời
mình; chúng ta tôn thờ Ngài và quyết tâm làm theo lời dạy của Ngài thì Đức Chúa
Trời sẽ tha mọi tội lỗi của chúng ta và nhận chúng ta làm con của Ngài.
Đó là một phương pháp tuyệt vời; vì chỉ bởi lòng tin chân thành mà
chúng ta được tha tội, được chuyển đổi số phận đời đời từ hỏa ngục lên thiên
đàng, mà chẳng phải tốn kém gì cả; duy chỉ Đức Chúa Trời là phải trả một giá
rất đắt để cứu chúng ta mà thôi. Sự hy sinh lớn lao đó đã thể hiện tình
thương vô đối của Ngài đối với mỗi chúng ta và cũng làm thỏa mãn đức công chính
của Ngài. Cảm tạ Đức Chúa Trời vô cùng!
Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của
Ngài, để ai tin Con ấy, không bị chết mất, mà được sự sống đời đời. (Giăng 3:16).
15. Nói cụ thể hơn, làm sao tôi
có thể được sạch tội?
Bạn cần
phải làm ba điều sau đây:
1) Nhìn nhận mình là
người có tội
Bạn phải thành thật nhìn nhận rằng lâu nay bạn đã có tội với Đức
Chúa Trời, Đấng đã dựng nên bạn và ban sự sống cho bạn, thế mà lâu nay bạn
không thờ kính Ngài như đáng phải có. Ngoài ra, trong cuộc sống, từng hồi
từng lúc bạn cũng đã có lỗi với tha nhân. Vậy chúng ta phải nhìn nhận
mình là người tội lỗi.
Nếu chúng ta nói rằng chúng ta không có tội, ấy là chúng ta tự lừa
dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta xưng tội mình,
thì Ngài, Đấng thành tín và công chính, sẽ tha tội chúng ta và tẩy sạch khỏi
chúng ta mọi điều gian ác.
(1 Giăng 1:8-9).
2) Ăn năn tội
Bước kế tiếp là bạn phải hối cải. Hối cải là hành động quyết
định lìa bỏ tội lỗi, lìa bỏ sự thờ phượng và tin tưởng những thần linh khác mà
quay về thờ phượng Ba Ngôi Đức Chúa Trời, và cầu xin Ngài giúp bạn sống cuộc
đời mới, thờ kính Chúa và yêu thương mọi người.
Thế thì, anh chị em hãy ăn năn, hãy trở về cùng Đức Chúa Trời để
các tội lỗi của anh chị em được xóa đi.(Công Vụ 3:19).
3) Tin nhận Đức Chúa
Giê-su
Bước thứ ba là bạn thành tâm cầu xin Chúa tha tội cho bạn, tin
rằng Ngài đã chết thay cho bạn, và rước mời Ngài ngự vào lòng làm Chúa và Chủ
cuộc đời của bạn. Bạn hứa nguyện sẽ trung thành thờ phượng Ngài cho đến
khi qua đời.
Đây là những lời đáng tin cậy và đáng cho mọi người tiếp nhận:
Chúa Cứu-thế Giê-su đã đến thế gian để cứu những kẻ tội lỗi.
(I Ti-mô-thê 1:15).
Nhưng hễ ai tin nhận Ngài, tức những ai tin vào danh Ngài, Ngài
ban cho quyền phép trở thành con cái Đức Chúa Trời.
(Giăng 1:12).
16. Đối với những người đã chết
trước khi Đức Chúa Giê-su giáng
thế; hoặc sau khi Đức Chúa Giê-su đã giáng thế rồi, nhưng họ chưa
bao giờ được nghe giải thích rõ ràng về sự hy sinh cứu chuộc của Đức Chúa
Giê-su để tin thờ Ngài, hầu hưởng ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời, thì rồi đây Đức
Chúa Trời sẽ đối xử với những người đó như thế nào?
Bây giờ chúng ta không biết rõ, nhưng điều chúng ta biết rõ, ấy
là: Đức Chúa Trời là Đấng công chính và yêu thương. Đến ngày phán xét của
Ngài, Ngài sẽ xét xử rất công bình cho những người ấy. Trong ngày phán
xét của Đức Chúa Trời, khi phán quyết của Ngài được tuyên bố, chắc chắn những
người ấy sẽ hoàn toàn đồng ý và mỗi chúng ta cũng sẽ rất hài lòng.
Điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải làm hiện nay là: rao báo cho
mọi người, bất kể dân tộc nào, để họ được hiểu biết và có cơ hội tin thờ Chúa,
hầu hưởng ơn cứu rỗi của Ngài, mà thoát khỏi ngày phán xét của Đức Chúa Trời
trong tương lai.
Hãy đi khắp thế giới, rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Ai
tin và chịu báp-têm sẽ được cứu, còn ai không tin sẽ bị kết tội.
(Mác 16:15-16).
Ai tin Con có sự sống đời đời. Ai không chịu tin Con sẽ
chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người
đó.(Giăng 3:36).
Đức
Chúa Giê-su là Con Một của Đức Chúa Trời. Ngài chính là Thượng Đế Ngôi
Hai và Ngài đã trở thành một Con Người hoàn toàn như chúng ta. Ngài chính
là Chúa Cứu Thế, Đấng Giải Cứu của toàn thể nhân loại.
Bài Bốn
Đức
Chúa Giê-su
1. Đức Chúa Giê-su là ai?
Đức Chúa Giê-su là Con Một của Đức Chúa Trời. Ngài chính là
Thượng Đế Ngôi Hai và Ngài đã trở thành một Con Người hoàn toàn như chúng
ta. Ngài chính là Chúa Cứu Thế, Đấng Giải Cứu của toàn thể nhân loại.
2. Đức Chúa Giê-su đã làm gì mà
được tôn là Đấng Giải Cứu của
nhân
loại?
Ngài đã từ trời giáng thế làm người, để chịu hình phạt thay cho
chúng ta. Nhờ Ngài chịu chết thay trên thập tự giá mà chúng ta, những con
người tội lỗi, khi tin nhận công ơn hy sinh cứu chuộc của Ngài thì được Đức
Chúa Trời tha thứ và được hưởng ơn cứu rỗi.
3. Chẳng lẽ Đức Chúa Trời không
còn cách gì khác hay sao mà phải
sai Con
Một Ngài giáng thế và chịu nhục hình đớn đau như vậy?
Kinh Thánh không cho thấy Đức Chúa Trời muốn dùng cách nào khác
vẹn toàn hơn là sai chính Con Một của Ngài, Đức Chúa Giê-su, giáng thế làm
người, để rao giảng đạo Trời, và chịu hình phạt thay cho chúng ta. Số là
sai Con Một của Ngài giáng thế chịu hình phạt thay cho chúng ta, một mặt thể
hiện được đức yêu thương của Ngài, một mặt khác làm thỏa mãn đức công chính và
đức thánh khiết của Ngài.
Thời xưa, kinh Cựu Ước cho thấy, các con vật hiến tế chịu chết vì
tội của người mang nó đến dâng. Tất cả những điều ấy cũng chỉ làm hình
bóng về chính Đức Chúa Giê-su sẽ làm con vật hiến tế, dùng cái chết của Ngài để
đền tội cho những người có tội và cứu chuộc thế nhân. Để cho Con Một của
Ngài chịu chết là cách tốt nhất Đức Chúa Trời đã dùng để thể hiện tình thương
của Ngài và cứu chúng ta.
4. Tại sao Đức Chúa Giê-su lại
chịu làm như thế?
Đức Chúa Giê-su vâng lời Đức Chúa Cha mà chịu như thế bởi vì Ngài
thương chúng ta. Ngài không muốn chúng ta phải bị đau khổ đời đời trong
hỏa ngục. Tình yêu thương là động cơ đã thôi thúc Ngài giáng trần để chết
thay cho chúng ta, những người Ngài yêu. Khi còn ở thế gian Ngài đã phán:
Như Cha đã yêu thương Ta thể nào, Ta cũng yêu thương các ngươi thể
ấy. Hãy cứ ở trong tình yêu của Ta. (Giăng 15:9).
Không có tình yêu nào vĩ đại hơn là vì bạn mà hy sinh mạng sống
mình. Các ngươi là bạn Ta...(Giăng 15:13-14).
Ta ban cho các con một điều răn mới, đó là các con phải yêu thương
nhau, như Ta đã yêu thương các con thể nào, các con cũng hãy yêu thương nhau
thể ấy. Nếu các con yêu thương nhau, thì bởi đó thiên hạ sẽ nhận biết các
con là môn đồ Ta.
(Giăng 13:34-35).
5. Nếu Đức Chúa Giê-su đã chịu
hình phạt thay cho cả nhân loại, thì
không
phải cả nhân loại sẽ được cứu sao?
Không đâu. Mặc dù Đức Chúa Giê-su đã chịu hình phạt thay cho
cả nhân loại, nhưng chỉ những ai tin nhận công ơn hy sinh cứu chuộc của Ngài,
Đức Chúa Trời mới ban ơn cứu rỗi cho người ấy.
Đức Chúa Trời đã ban, nhưng chúng ta phải nhận thì
mới được hưởng. Vì thế Kinh Thánh có chép, “hễ ai tin Con ấy thì được
sự sống đời đời” (Giăng 3:16). Nên người không tin chắc chắn
sẽ không được hưởng sự sống đời đời, mặc dù Đức Chúa Giê-su cũng đã chết thay
cho tội lỗi của người ấy rồi. Muốn hưởng ơn cứu rỗi, bạn phải tin nhận và
rước Chúa vào lòng mới được. Ví như bữa cơm đã được dọn ra sẵn, nhưng bạn
phải ăn thì mới được no vậy.
Nhưng hễ ai tin nhận Ngài, tức những ai tin vào danh Ngài, Ngài
ban cho quyền phép trở thành con cái Đức Chúa Trời. (Giăng 1:12).
Ai tin Con thì được sự sống đời đời. Ai không chịu tin Con
thì chẳng thấy sự sống đâu. ..(Giăng 3:36).
6. Tại sao chỉ có một mình Chúa
chịu chết mà có thể cứu vô số người
tin
được?
Bởi vì giá trị của Đức Chúa Giê-su vô cùng lớn lao. Ngài là
Con Một của Đức Chúa Trời và cũng là Đức Chúa Trời Ngôi Hai, nên sinh mạng của
Ngài có giá trị đủ để cứu cả nhân loại tự cổ chí kim. Ví như chúng ta cầm
hai tờ giấy bạc trong tay. Một tờ một đô-la và một tờ một trăm
đô-la. Hai tờ đều là giấy bạc có khổ như nhau, nhưng một tờ có giá trị bằng
một trăm tờ kia. Cũng vậy, sinh mạng của một mình Đức Chúa Giê-su có giá
trị hơn hàng tỷ người trên thế giới từ xưa đến nay. Giá trị của Đức Chúa
Giê-su lớn lao vô cùng, nên cái chết của Ngài có thể cứu chuộc cả nhân loại.
7. Đức Chúa Giê-su có cha mẹ phần
xác không?
Đức Chúa Giê-su chỉ có mẹ phần xác là bà Ma-ry, nhưng Ngài không
có cha phần xác. Cha nuôi phần xác của Ngài là ông Giô-sép.
8. Như thế làm sao mẹ Ngài có
thai Ngài được?
Kinh Thánh cho biết Đức Thánh Linh ngự vào lòng trinh nữ Ma-ry và
làm cho cô mang thai Chúa, chứ cô không thụ thai theo công lệ thường tình như
bao nhiêu người nữ khác.
Ma-ry thưa với thiên sứ, “Làm sao việc ấy có thể xảy ra được, vì
tôi chưa hề biết một người nam nào?” Thiên sứ đáp cùng nàng, “Đức Thánh
Linh sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ bao phủ trên
cô. Cho nên Con Thánh sinh ra sẽ được gọi là Con Đức Chúa Trời. (Lu-ca
1:34-35).
9. Đức Chúa Giê-su giáng thế khi
nào?
Đức Chúa Giê-su đã giáng thế trên 2.000 năm trước, tại
Do-thái. Sự giáng sinh của Ngài đã chia hai dòng lịch sử nhân loại thành
trước Chúa (T.C.) và sau Chúa (S.C.), Người lương đã đổi chữ Chúa thành Công
Nguyên, cho nên họ gọi là TC (trước công nguyên) và SC (sau công nguyên), giống
như họ đã đổi chữ “Chúanhật” thành “Chủnhật” vậy. Họ cho rằng đó là ngày
của chủ cho được nghỉ làm, còn chúng ta thì tin rằng đó là ngày thánh, biệt
riêng ra để thờ phượng Chúa.
10. Đức Chúa Giê-su đã sống bao
nhiêu năm trên đất?
Ngài đã
sống khoảng 33 năm trên thế gian nầy.
11. Trong thời gian sống trên đất
Ngài ở nước nào?
Trong thời gian sống trên đất Ngài ở nước Do-thái, một quốc gia
nhỏ bé trên bờ phía đông Địa Trung Hải. Nước Do-thái là một nước ở vùng
Trung Đông, thuộc Á Châu. Vì thế, về phương diện phần xác, Đức Chúa
Giê-su là người Châu Á, chứ không phải người Âu Mỹ, như một số người lầm tưởng.
12. Một số người đã gọi Đạo Tin
Lành là Đạo Mỹ, như thế có đúng
không?
Dĩ nhiên là không. Đức Chúa Giê-su đã giáng sinh trên 2.000
năm rồi, còn nước Mỹ mới được lập quốc chưa được 300 năm, thì lẽ nào Đạo Chúa
là đạo Mỹ được? Sở dĩ người ta nói như thế bởi vì họ thấy nhiều người Mỹ
sốt sắng đi khắp thế giới rao giảng Đạo Chúa, cho nên họ hiểu lầm rằng Đạo Chúa
là đạo Mỹ đấy thôi.
13. Lúc ở thế gian, Đức Chúa
Giê-su đã làm gì?
Ba muơi năm đầu, Ngài làm người con hiếu thảo trong gia đình,
phụng dưỡng cha nuôi và mẹ, chăm sóc các em, theo phong tục của người
Do-thái. Ba năm sau cùng của cuộc đời, Ngài chu du trong nước Do-thái và
các miền phụ cận để rao giảng Đạo Trời, kêu gọi người ta quay về thờ phượng Đức
Chúa Trời và tin nhận Ngài là Đấng đến giải cứu họ ra khỏi quyền lực của
Sa-tan, sự chết, tội lỗi, và bản ngã xác thịt. Đức Chúa Giê-su đã bày tỏ
những quyền năng và phép lạ để chứng tỏ cho những người đồng thời với Ngài biết
Ngài chính là Con Đức Chúa Trời, Đấng Cứu-thế từ trời đến.
14. Đức Chúa Giê-su đã làm những
phép lạ gì để chứng tỏ Ngài là
Đấng
Cứu-thế từ trời đến?
1) Đối với những bệnh tật
nan y
Ngài đã chữa cho người đui thấy được, người điếc nghe được, người
câm nói được, người què đi được, người phung được lành lặn, v.v. để cho người
ta thấy Ngài có quyền trên các bịnh tật nan y. (Giăng 9:1-7; Mác 7:31-37;
Lu-ca 5:18-25; 17:11-19).
2) Đối với các định luật
thiên nhiên
Ngài làm phép lạ biến nước thành rượu, truyền cho bão tố yên lặng,
hóa bánh cho hàng ngàn người ăn, đi bộ trên mặt biển, v.v., để chứng tỏ Ngài có
quyền trên cõi thiên nhiên và vũ trụ.
(Giăng 2:1-11; Ma-thi-ơ 8:23-27; 14:15-21; 14:25).
3) Đối với tà linh ma quỷ
Kinh Thánh cho biết mỗi lần quỷ gặp Ngài là run sợ và van
nài. Ngài đã nhiều lần ra lịnh cho quỷ phải xuất ra khỏi những người
chúng ám hại và hành hạ, để chứng tỏ Ngài có quyền trên thế giới vô hình của tà
linh và ma quỷ. (Ma-thi-ơ 8:28-34; Mác 1:23-26).
4) Đối với tử thần
Ngài đã truyền cho những người chết sống lại, để chứng tỏ Ngài có
quyền trên sự sống chết của con người. (Mác 5:22-42; Lu-ca 7:11-15; Giăng
11:1-44).
Đức Chúa Giê-su đã làm những điều đó để chứng tỏ Ngài quả thật là
Đấng Cứu Thế của thế gian.
15. Tại sao Đức Chúa Giê-su tài
phép như thế mà lại
phải
chịu
chết?
Đức Chúa Giê-su phải chịu chết bởi vì Ngài vâng lời Đức Chúa
Cha và làm theo luật của cha Ngài. Theo luật của Đức Chúa Trời thì
chỉ khi nào con vật hiến tế đổ máu ra, chịu chết, bấy giờ sự chuộc tội mới có
hiệu lực.
Thật vậy, theo Luật Pháp, thì mọi vật đều phải nhờ huyết mà được
tinh sạch, và nếu không có đổ huyết thì không có sự tha thứ.
(Hê-bơ-rơ 9:22).
16. Lúc Chúa bị đóng đinh trên
thập tự giá, Ngài có chết thật
không?
Ngài quả đã chết thật. Vị sĩ quan hành quyết, người La-Mã,
đã kiểm nghiệm và xác nhận với thượng cấp của ông như vậy. Sau khi Ngài
trút linh hồn, người ta đã đem thân xác Ngài đi liệm và chôn Ngài đi.
(Mác 16:44-45).
17. Nếu thế, Đức Chúa Giê-su cũng
chết như mọi người thì làm sao
Ngài có
thể cứu được ai?
Không phải vậy đâu. Ngài không chết luôn như bao nhiêu người
khác. Sau khi Ngài được chôn trong mộ đá, đến ngày thứ ba, Ngài đã từ cõi
chết sống lại. Ngài sống lại và hiện ra cho nhiều người xem thấy.
Nhờ thế, Ngài mới có quyền ban sự sống đời đời và sức sống phục sinh cho những
ai tin cậy Ngài, và Đạo Chúa, tức Cơ-đốc Giáo, mới được thành hình, chứ nếu
Ngài chết luôn như bao nhiêu vị giáo chủ khác, thì chắc hẳn không có Cơ-đốc
Giáo đâu. (Ma-thi-ơ 28:1-20; Mác 16:1-20; Lu-ca 24:1-55; Giăng 20:1-21:25).
18. Sau khi sống lại Đức Chúa
Giê-su còn ở thêm trên đất bao lâu
nữa?
Sau khi phục sinh Ngài đã ở thêm trên đất 40 ngày nữa (Công Vụ
1:3). Ngài hiện ra nhiều lần cho các môn đồ Ngài và cho hơn 500 người (1
Cô-rinh-tô 15:3-9) có lòng tin, xứng đáng được chiêm ngưỡng thân thể vinh hiển
và mầu nhiệm của Ngài xem thấy. Họ có thể thấy Ngài tận mắt và sờ đến
Ngài tận tay; nhờ vậy họ mới được xác quyết chắc chắn về sự phục sinh của
Ngài. Vì thế từ đó trở đi, những người ấy đã hăng say rao truyền về Chúa
cho đến hơi thở cuối cùng, bất chấp gian nguy và bách hại. Tất cả những
người ấy, dù phải hy sinh tính mạng, họ cũng không bao giờ phủ nhận sự thật về
Đức Chúa Giê-su đã phục sinh.
19. Sau 40 ngày ấy, Đức Chúa
Giê-su đi đâu?
Sau 40 ngày đó, Chúa từ giã các môn đồ của Ngài và thăng thiên về
trời, trước sự chứng kiến của họ.
Sau khi Ngài phán với họ như vậy xong, Ngài được cất lên trời đang
lúc họ nhìn xem Ngài. Có một đám mây tiếp Ngài khuất đi, họ không trông
thấy Ngài nữa.(Công Vụ 1:9).
20. Đức Chúa Giê-su có dự định sẽ
trở lại thế gian nầy không?
Có. Chúa hứa một ngày trong tương lai Ngài sẽ tái lâm để
tiếp đón những người tin thờ Ngài vào thiên đàng vinh hiển.
Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở; nếu không như thế, Ta đã bảo cho
các ngươi rồi. Ta đi chuẩn bị một chỗ cho các ngươi. Nếu Ta đi và chuẩn bị một
chỗ cho các ngươi, Ta sẽ trở lại để đem các ngươi đi với Ta, hầu Ta ở đâu, các
ngươi cũng ở đó.(Giăng 14:2-3).
Họ sẽ thấy Con Người lấy đại quyền đại vinh ngự trên mây trời mà
đến. Con Người sẽ sai các thiên sứ mình dùng tiếng kèn lớn mà tập họp
những người được chọn khắp bốn phương trời, từ chân trời nầy đến chân trời kia. (Ma-thi-ơ 24:30-31).
21. Ngài có hẹn trước khi nào
Ngài sẽ trở lại thế gian không?
Ngài không nói rõ ngày giờ nào Ngài sẽ trở lại. Kinh Thánh
bảo rằng Ngài sẽ trở lại thình lình như kẻ trộm.
Thì giờ và kỳ hạn mà Đức Chúa Cha đã tự quyền định lấy là điều các
ngươi không nên biết. (Công Vụ 1:7).
Thưa anh chị em, về thời và kỳ thì tôi không cần viết cho anh chị
em nữ; vì chính anh chị em đã biết rõ rằng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm
trong ban đêm. (1 Thê-sa. 5:1-2)
Vì thế lúc nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để nghênh đón Chúa trở
lại, hoặc sẵn sàng để có thể về với Chúa bất cứ lúc nào. Bạn đã sẵn sàng
chưa? Nếu chưa, xin mời bạn hãy sớm tin thờ Chúa.
Không.
Đức Thánh Linh là một thân vị (một người), mặc dù Ngài không có thân
xác, vì Ngài là thần linh. Kinh Thánh cho chúng ta biết Ngài làm mọi sự
như một người.
Bài Năm
Đức
Thánh Linh
1. Đức Thánh Linh là ai?
Đức Thánh Linh là Ngôi Thứ Ba trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời.
Ngài đồng đẳng và đồng quyền với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con.
2. Xin giải thích xem Ngài bình
đẳng với Đức Chúa Cha và Đức
Chúa Con
như thế nào?
Ngài ngang
hàng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con trong mọi phương diện. Sau đây chỉ
là một vài điểm cơ bản để chỉ về sự bình đẳng của Ngài.
1) Ngài là Đấng Tạo Hóa
Thần (Đức Thánh Linh) của Đức Chúa Trời đã dựng
nên tôi,
Hơi thở của Đấng Toàn Năng đã ban cho tôi sự sống.
(Gióp 33:4).
2) Ngài là Đấng Toàn Năng
Thiên sứ đáp cùng nàng,“Đức Thánh Linh sẽ ngự xuống trên
cô, và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ bao phủ trên cô. Cho nên Con Thánh
sinh ra sẽ được gọi là Con Đức Chúa Trời.”
(Lu-ca 1:35).
3) Ngài là Đấng Toàn Tri
Vì
Đức Thánh Linh thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu nhiệm
của Đức Chúa Trời. (1 Cô-rinh-tô 2:10).
4) Ngài là Đấng Toàn Tại
Con có thể đi đâu cho khỏi Thần Linh Ngài?
Con có thể trốn đâu cho khỏi mặt Ngài?
Nếu con lên trời, có Ngài đang ngự tại đó;
Nếu con xuống âm phủ, kìa, Ngài cũng hiện diện ở
đó.
Nếu con lấy cánh bình minh,
Bay đến những nơi ở tận chân trời góc bể,
Tại đó, tay Ngài sẽ dẫn dắt con;
Tayphải Ngài sẽ nắm lấy con.
Nếu con nói, "Chắc bóng tối sẽ che khuất con,
Khi ánh sáng chung quanh con trở nên đêm tối,"
Nhưng đối với Ngài, bóng tối chẳng tối tăm gì cả,
Ban đêm sáng rõ như ban ngày;
Bóng tối hay ánh sáng đều như nhau trước mặt Ngài.
(Thánh Thi 139:7-12).
5) Ngài là Đấng Đời Đời
...thì huyết của Chúa Cứu Thế, Đấng nhờ Đức Thánh Linh đời đời,
dâng chính Ngài làm một con vật hiến tế không tì vết lên Đức Chúa Trời, sẽ tẩy
sạch những việc chết khỏi lương tâm chúng ta để chúng ta phụng sự Đức Chúa Trời
hằng sống, thật có hiệu lực đến mực nào.(Hê-bơ-rơ 9:14).
2. Có người cho rằng Đức Thánh
Linh chỉ là một mãnh
lực vô
tính; điều đó có đúng không?
Không. Đức Thánh Linh là một thân vị (một người), mặc
dù Ngài không có thân xác, vì Ngài là thần linh. Kinh Thánh cho chúng ta
biết Ngài làm mọi sự như một người.
3. Xin hãy đơn cử một vài trường
hợp chứng tỏ Đức Thánh Linh
hành
động như một người.
1) Ngài cáo trách con
người về tội lỗi họ
Ta nói với các ngươi chân lý nầy: Ta đi là ích lợi cho các
ngươi. Vì nếu Ta không đi, Đấng An Uỉ sẽ không đến với các ngươi, nhưng
nếu Ta đi, thì Ta sẽ phái Ngài đến. Khi Ngài đến, Ngài sẽ cáo trách thế
gian về tội lỗi, về sự công chính, và về sự phán xét.
(Giăng 16:7-8).
2) Ngài làm cho chúng ta
được tái sinh và đổi mới
Ngài cứu chúng ta, không phải vì những việc công chính chúng ta
làm, nhưng vì lòng thương xót của Ngài, qua phép thanh tẩy của sự tái sinh và
sự đổi mới của Đức Thánh Linh.(Tít 3:5).
3) Ngài dẫn dắt chúng ta
trong bước đường tin kính
Vì tất cả những ai được Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời dẫn dắt
đều là con của Đức Chúa Trời.(Rô-ma 8:14).
Khi Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dẫn các ngươi vào mọi chân lý. (Giăng 16:3).
4) Ngài sẽ dạy dỗ chúng
ta
Nhưng khi Đấng An Uỉ, tức là Đức Thánh Linh, Đấng Cha sẽ nhân danh
Ta sai đến, chính Ngài sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự. Ngài sẽ làm cho các
ngươi nhớ lại tất cả những điều Ta đã nói với các ngươi. (Giăng 14:26).
5) Ngài kêu gọi chúng ta
vào chức vụ hầu việc Chúa và sai phái chúng ta đi
Đang khi họ thờ phượng Chúa và kiêng ăn, Đức Thánh Linh phán với
họ, “Hãy biệt riêng Ba-na-ba và Sau-lơ ra cho Ta, để họ làm công việc Ta đã kêu
gọi họ.” (Công vụ 13:2)
6) Ngài ban cho chúng ta
quyền năng để phục vụ Chúa
... nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi
sẽ nhận lãnh quyền năng và làm những nhân chứng của Ta tại Giê-ru-sa-lem, cả
miền Giu-đê, miền Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất. (Công vụ 1:8).
7) Ngài cầu thay cho
chúng ta
Cũng vậy, Đức Thánh Linh giúp đỡ chúng ta trong khi chúng ta yếu
đuối, vì chúng ta không biết mình cần điều gì mà cầu xin cho đúng, nhưng có Đức
Thánh Linh cầu thay cho chúng ta, bằng những tiếng thở than không thể nói thành
lời. (Rô-ma 8:26).
8) Ngoài ra, Đức Thánh
Linh cũng biết yêu, biết buồn, biết ghen, v.v.
... vì tình yêu của Đức Thánh Linh, tôi nài xin anh chị em hãy
cùng chiến đấu với tôi trong khi cầu nguyện trước mặt Đức Chúa
Trời. (Rô-ma 15:30).
Xin anh chị em đừng làm buồn Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời, vì
nhờ Ngài mà anh chị em được đóng dấu niêm phong cho ngày cứu chuộc. (Ê-phê-sô 4:30).
Đức Thánh Linh, Đấng Ngài đặt trong chúng ta, yêu thương chúng ta
quá đến độ ghen tương. (Gia-cơ 4:5).
4. Đức Thánh Linh còn làm gì cho
chúng ta nữa không?
Có. Đức Thánh Linh ban cho chúng ta những ân tứ thuộc linh
và làm cho đời sống chúng ta sinh ra những trái thuộc linh.
5. Ân tứ thuộc linh là gì?
Đó là những khả năng đặc biệt do Đức Thánh Linh ban cho. Đó
là những quà tặng của Ngài cho những người tin thờ Chúa, để họ dùng mà gây dựng
hội thánh và làm vinh hiển Ba Ngôi Đức Chúa Trời.
6. Xin kể ra một vài ân tứ thuộc
linh.
Các ân tứ thuộc linh đó là: ơn làm sứ đồ, ơn làm nhà tiên tri, ơn
làm nhà truyền giảng Tin Mừng, ơn làm mục sư và giáo sư, ơn có lời nói khôn
ngoan, ơn có lời nói tri thức, ơn có đức tin đặc biệt, ơn chữa bịnh, ơn làm
phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân biệt các linh, ơn nói tiếng lạ, ơn thông giải
tiếng lạ, ơn phục vụ, ơn dạy dỗ, ơn khích lệ, ơn ban cho, ơn lãnh đạo, ơn
thương xót, v.v. (Ê-phê-sô 4:11; 1 Cô-rinh-tô 12:8-10; Rô-ma 12:6-8).
Tuỳ theo nhu cầu của mỗi cộng đồng con dân Chúa ở từng địa phương,
từng hoàn cảnh, từng thời đại, mà Đức Thánh Linh có thể ban cho tôi con Ngài
những ân tứ khác nhau hoặc những ân tứ mới, không được liệt kê ở trên, nhằm đáp
ứng nhu cầu của công việc Chúa lúc bấy giờ.
7. Còn những trái thuộc linh là
gì?
Đó là những kết quả tốt đẹp của đời sống một người thuận phục theo
sự dẫn dắt và dạy dỗ của Đức Thánh Linh và lời Kinh Thánh.
8. Xin kể ra những trái của Đức
Thánh Linh.
Nhưng trái của Đức Thánh Linh là yêu thương, vui vẻ, bình an, nhịn
nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, khiêm tốn, tiết độ. Không có luật
pháp nào cấm các điều đó. (Ga-la-ti 5:22-23).
9. Có người nói về “phép báp-têm
bằng Đức Thánh Linh.” Vậy
“báp-têm
bằng Đức Thánh Linh” là gì?
Phép báp-têm bằng Đức Thánh Linh là sự thanh tẩy tội lỗi một cách
siêu nhiên và vô hình do Đức Thánh Linh thực hiện trong lòng những ai quyết
định tin thờ Chúa. Đây là việc Đức Thánh Linh làm để hiện thực hóa mầu
nhiệm vượt thời gian và không gian về việc chúng ta đồng chết và đồng sống lại
với Chúa Cứu Thế (Rô-ma 6:1-10) và kết hiệp chúng ta vào Hội Thánh, tức thân
thể thiêng liêng của Ngài (1 Cô-rinh-tô 12:13).
Người thọ lễ đôi khi được kinh nghiệm đặc biệt như xuất thần nói
tiếng lạ để ca ngợi Đức Chúa Trời ngay lúc đó (Công Vụ 19:1-7). Mặc dù
tất cả những người thành tâm tin thờ Chúa đều nhận được phép báp-têm bằng Đức
Thánh Linh, nhưng hầu hết đều không có kinh nghiệm đột xuất nói tiếng lạ đặc
biệt ấy. Không có ơn nói tiếng lạ không có nghĩa là không được báp-têm
bằng Đức Thánh Linh.
Phép báp-têm bằng Đức Thánh Linh thường xảy ra (thường xảy ra,
chứ không phải lúc nào cũng xảy ra) trước phép báp-têm bằng
nước. Phép báp-têm bằng nước thấy được là hình bóng của phép báp-têm bằng
Đức Thánh Linh không thấy được.
10. Thế còn “đầy dẫy Đức Thánh
Linh” là sao?
Đây là cụm từ chỉ về một người tin thờ Chúa, để lòng mình hoàn
toàn cho Đức Thánh Linh chiếm hữu và sử dụng. Đức Thánh Linh sẽ điều
khiển tấm lòng và trí tuệ người ấy, để người ấy sẽ mặc lấy quyền năng và khôn
ngoan thiên thượng, thực hiện một cách phi thường những công việc Đức Chúa Trời
giao phó.
Kinh Thánh và kinh nghiệm theo Chúa cho thấy, thường thường khi có
một tác động gì đó bên ngoài, thì Đức Thánh Linh đang ở trong chúng ta, muốn
chiếm hữu chúng ta hoàn toàn hầu ban cho chúng ta sự khôn ngoan thiên thượng và
khả năng phi thường để thực hiện hoặc đối phó với tình thế ấy. Tuy nhiên,
vấn đề còn tùy thuộc rất nhiều nơi chúng ta, chúng ta có muốn để cho Ngài sử
dụng mình hay không. Lắm người vì không muốn bị phiền phức khi được Chúa
sử dụng, nên đã đè nén sự giục giã hay dập tắt sự bùng cháy của Đức Thánh Linh
(1 Thê-sa. 5:19). Điều đó còn có thể hiểu được, nhưng nguy hiểm hơn cả là
phạm tội trọng khi nhục mạ Đức Thánh Linh (Hê-bơ-rơ 10:29; Ma-thi-ơ 12:31).
Đầy dẫy Đức Thánh Linh phải là khát vọng cao quý của những người
tin thờ Chúa, vì hiện nay chúng ta đang sống trong thời kỳ của Đức Thánh Linh
hoạt động.
11. Xin đơn cử một vài trường hợp
của một người đầy dẫy Đức
Thánh
Linh, xem người ấy sẽ làm gì.
Khi một
người được đầy dẫy Đức Thánh Linh, người ấy sẽ...
1) Ca ngợi Đức Chúa Trời
Xa-cha-ri ca ngợi Chúa (Lu-ca 1:67)
Các môn đồ
trong Lễ Ngũ Tuần ca ngợi những việc quyền năng
diệu kỳ của
Đức Chúa Trời (Công Vụ 2:11)
2) Khen ngợi người hiến
thân phụng sự Chúa
Bà Ê-li-sa-bét chúc mừng cô Ma-ry vì cô Ma-ry đã tin cậy Chúa và
vâng lời Ngài. Số là cô Ma-ry đã hy sinh danh dự và hạnh phúc cá nhân để
Đức Chúa Trời dùng cô mang Chúa Cứu Thế vào đời. (Lu-ca 1:41-45).
3) Dạn dĩ rao truyền
Đạo Chúa
Phi-rơ dạn dĩ rao giảng Đạo Chúa cho những người có quyền thế.
Bấy giờ Phi-rơ được đầy dẫy Đức Thánh Linh và nói với họ: “Kính
thưa quý vị lãnh đạo của dân, kính thưa quý vị trưởng lão: Nếu ngày nay chúng
tôi bị hạch hỏi vì một việc tốt đã làm cho một người tật nguyền rằng thể nào mà
người ấy được lành mạnh thì xin tất cả mọi người trong quý vị và toàn dân
I-sơ-ra-ên hãy biết rằng: nhờ danh của Chúa Cứu Thế Giê-su, người Na-xa-rét,
Đấng quý vị đã đóng đinh trên thập tự giá, Đấng Đức Chúa Trời đã làm cho từ cõi
chết sống lại, chính là nhờ danh Ngài mà người nầy được mạnh khỏe và đứng trước
mặt quý vị đây..” (Công Vụ 4:8-10).
Tôi con Chúa dạn dĩ rao giảng Đạo Chúa cho mọi người.
Khi họ cầu nguyện xong, nơi họ đang nhóm họp rúng động; họ được
đầy dẫy Đức Thánh Linh, và rao giảng Đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ.(Công Vụ 4:31).
4) Phụ gánh vát công việc
nhà Chúa
Vậy thưa anh chị em, xin hãy chọn trong vòng anh chị em bảy người
có tiếng tốt, đầy dẫy Đức Thánh Linh, và khôn ngoan, để chúng tôi sẽ trao nhiệm
vụ nầy cho họ. Còn chúng tôi, chúng tôi phải chuyên tâm vào sự cầu nguyện
và chức vụ giảng dạy Lời Chúa. (Công Vụ 6:3-4).
5) Cương quyết đương đầu với
những người chống đối Đạo Chúa và ngăn trở người ta tin Chúa
Phao-lô đương đầu với thầy pháp Ê-ly-ma và nhân danh Chúa phạt ông
ấy bị mù, vì ông ta cố tình ngăn trở người ta tin thờ Chúa. (Công vụ 13:8-11)
12. Chúng ta có cần có Đức Thánh
Linh trong đời sống không?
Chúng ta rất cần Đức Thánh Linh hiên diện trong đời sống; vì Kinh
Thánh dạy rằng, chúng ta phải sống theo sự dạy dỗ và hướng dẫn của Đức Thánh
Linh và phải lìa bỏ, hay làm chết đi bản ngã xác thịt. Hơn nữa, nếu Đức
Thánh Linh không ngự trị trong đời sống thì chúng ta chưa phải là người thuộc
về Chúa.
Anh chị em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời và Đức
Thánh Linh của Đức Chúa Trời đang ngự trong anh chị em sao?(1 Cô-rinh-tô 3:16).
Ai không có Đức Thánh Linh của Chúa Cứu-thế thì người ấy không
thuộc về Ngài.(Rô-ma 8:9).
Là một môn đồ của Đức Chúa Giê-su chúng ta phải cầu nguyện với Đức
Thánh Linh thường xuyên, xin Ngài dẫn dắt mọi bước đường, mọi quyết định của
đời sống chúng ta. Sống tương giao mật thiết với Đức Thánh Linh là một
phước hạnh thiêng liêng tuyệt vời. Tiếc thay, đây là một huyền nhiệm
thuộc linh vô cùng quý báu mà ít người chịu chú tâm đến và kinh nghiệm.
13. Thế chúng ta cũng có thể cầu
nguyện với Đức Thánh Linh sao?
Đúng vậy. Chúng ta có thể cầu nguyện trực tiếp với Đức Thánh
Linh cũng như chúng ta có thể cầu nguyện trực tiếp với Đức Chúa Cha hay với Đức
Chúa Con. Cầu nguyện với Đức Thanh hoặc cầu nguyện với Đức Chúa Giê-su
cũng là cầu nguyện với Đức Chúa Trời.
14. Có bằng chứng gì cho biết sự
tương giao với Đức Thánh Linh
đem lại
một đời sống kết quả phước hạnh chăng?
Có. Tất cả những thánh nhân được nhắc đến trong Tân Ước đã
thành công trong đời sống, tên tuổi vẫn còn được nhắc nhở ngày nay, vốn là
những người bình thường như bao nhiêu người khác, nhưng vì họ đã biết chọn sống
trong mối tương giao mật thiết với Đức Thánh Linh, quyết vâng theo sự hướng dẫn
của Ngài, nên những người bình thường đó đã làm được những việc phi thường, và
họ vốn từ những tội nhân đã trở thành những thánh nhân.
Hội Thánh của Chúa tồn tại và phát triển đến ngày nay phần lớn đều
do công của những người chọn sống trong mối tương giao mật thiết với Đức Thánh
Linh và vâng phục Ngài như vậy. Bạn cũng có thể trở thành một người như
thế.
Kinh Thánh là mạc khải bằng văn tự của Đức Chúa Trời cho loài
người. Kinh Thánh là tác phẩm của Đức Thánh Linh với sự cộng tác của các
tôi tớ Đức Chúa Trời.
Bài
Sáu
Kinh Thánh
1. Kinh Thánh là gì?
Kinh Thánh là mạc khải bằng văn tự của Đức Chúa Trời cho loài
người. Kinh Thánh là tác phẩm của Đức Thánh Linh với sự cộng tác của các
tôi tớ Đức Chúa Trời.
2. Kinh Thánh có phải chỉ là một
quyển sách không?
Không hẳn thế. Kinh Thánh đúng ra là một bộ sách gồm
66 quyển, đóng lại với nhau thành một tập.
3. Kinh Thánh do ai viết?
Kinh Thánh do các vị tiên tri, các vị sứ đồ, và các tôi tớ
Chúa được Đức Thánh Linh soi dẫn viết ra.
4. Có bao nhiêu người đã được Đức
Thánh Linh soi dẫn để viết ra
bộ Kinh
Thánh?
Vì có một số sách không thể biết đích xác do bao nhiêu người
viết (như sách Các Vua hoặc sách Sử Ký, vì kéo dài mấy trăm năm), hoặc không
thể biết đích xác ai là người đã viết, nên có thể ước lượng chừng 40 người đã
dự phần trong việc ghi lại toàn bộ Kinh Thánh. Những vị ấy sống ở những hoàn
cảnh xã hội và lịch sử khác nhau. Có người làm vua nhưng cũng có người
làm dân thường. Có người là nhà trí thức, nhưng cũng có người chỉ là nông
dân hoặc người chăn giữ súc vật. Có người là công chức, nhưng cũng có
người chỉ là thợ thuyền. Có người đã già, nhưng cũng có người vẫn còn
trẻ. Có người thuộc nam giới, và cũng có người thuộc nữ giới. Họ
tiêu biểu cho mọi thành phần của xã hội. Điều đặc biệt là họ được Đức
Thánh Linh dùng và soi dẫn để viết ra sứ điệp của Kinh Thánh. Chúa quả đã
không phân biệt ai, miễn là người có lòng tin và vâng phục theo thánh ý Ngài,
thì có thể để lại những kết quả có ảnh hưởng lâu dài không ngờ.
5. Kinh Thánh viết về những gì?
Kinh Thánh viết về chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời
cho nhân loại.
Kinh Thánh bắt đầu từ việc Đức Chúa Trời sáng tạo trời đất
muôn vật, tiến dần đến việc Ngài chọn lựa một người (Áp-ra-ham),
rồi từ người đó lập nên một dân tộc (dân Do-thái), qua dân tộc đó các lời
tiên tri về Chúa Cứu Thế được báo trước.
Kinh Thánh ghi lại thể nào Chúa Cứu Thế đã giáng thế và thi
hành chức vụ của Ngài, và thể nào những lời tiên tri về Ngài được ứng nghiệm
hoàn toàn.
Kinh Thánh ghi lại sự thành hình và phát triển của Hội
Thánh, một cộng đồng đức tin, một dân thuộc linh, gồm mọi người tin thờ Chúa từ
mọi dân tộc trên thế giới.
Kinh Thánh ghi lại những lời dạy về nếp sống đạo hằng ngày
cho những người có lòng tin và chấm dứt với những lời tiên tri về những gì sẽ
xảy đến cho nhân loại trong tương lai.
Thế thì Kinh Thánh là bộ kinh chép từ việc khai thiên lập
địa cho đến khi chấm dứt lịch sử nhân loại. Cho nên Kinh Thánh là pho
sách vô cùng quá báu mà mọi người cần nên có và nên đọc.
6. Kinh Thánh có mấy phần?
Kinh
Thánh có hai phần, là Cựu Ước và Tân Ước.
7. Tại sao gọi là Cựu Ước?
Ba mươi chín (39) sách đầu trong Kinh Thánh được gọi là Cựu
Ước, vì những sách ấy chép về một giao ước cũ giữa Đức Chúa Trời và loài người
qua trung gian của dân tộc Do-thái, trước khi Đức Chúa Giê-su giáng thế.
Cựu Ước rất cần thiết vì là nền tảng cho Tân Ước. Từ
khi có Tân Ước, loài người không cần phải áp dụng các nghi lễ thờ phượng Đức
Chúa Trời như Cựu Ước đã dạy bảo nữa vì chúng đã lỗi thời.
(Hê-bơ-rơ 8:13)
8. Tại sao gọi là Tân Ước?
Hai mươi bảy (27) sách sau của bộ Kinh Thánh được gọi là Tân
Ước, bởi vì những sách ấy chép về một giao ước mới giữa Đức Chúa Trời và loài
người qua sự hy sinh cứu chuộc của Chúa Cứu Thế Giê-su. Tân Ước là giao
ước đang có hiệu lực với chúng ta ngày nay.
9. Tại sao người ta có thể tin được
những lời đã viết trong bộ sách ấy
và chấp
nhận là Kinh Thánh?
Chúng
ta có thể tin được những lời trong bộ sách đó và chấp nhận là Kinh Thánh vì
những lẽ sau đây:
1) Kinh Thánh được Đức
Thánh Linh của Đức Chúa Trời hà hơi soi dẫn cho các tôi tớ Ngài viết ra chứ
không phải do họ tự ý sáng tác.
Cả Kinh Thánh đều được Đức Chúa Trời hà hơi soi dẫn, có ích
cho sự dạy dỗ, khiển trách, sửa trị, đào tạo người trong sự công chính, để
người thuộc về Đức Chúa Trời được trang bị đầy đủ, sẵn sàng để làm mọi việc
tốt. (2 Ti-mô-thê 3:16-17).
Trước hết, anh chị em hãy biết rằng, mỗi lời tiên tri trong
Kinh Thánh đều không thể được giải nghĩa theo ý riêng của một người nào.
Vì không lời tiên tri nào là do ý riêng của một người nào mà ra, nhưng do người
ta được Đức Thánh Linh cảm ứng mà đã nói ra sứ điệp của Đức Chúa Trời.(2 Phi-rơ 1:20-21).
2) Lời Kinh Thánh có
thần quyền, sống động, và linh nghiệm, có khả năng biến đổi con người, chứ
không phải như các tác phẩm văn chương khác.
Dù Kinh Thánh đã được viết hàng ngàn năm trước chúng ta,
nhưng Kinh Thánh luôn đáp ứng thỏa mãn nhu cầu tâm linh của mọi người, bất kể
là dân tộc nào, thuộc văn hóa nào, ở lứa tuổi nào, thuộc trình độ tri thức nào,
ở bất cứ thời đại nào. Cho đến ngày nay, Kinh Thánh vẫn là cuốn sách được
bán nhiều nhất hằng năm so với các sách khác trên thế giới.
Vì lời của Đức Chúa Trời là sống và linh nghiệm, sắc bén hơn
mọi gươm hai lưỡi, xuyên thấu vào đến nỗi có thể chia hồn và linh, cốt và tủy,
phân biệt các tư tưởng và những ý định trong lòng. (Hê-bơ-rơ 4:12).
3) Văn minh nhân loại
nhờ ảnh hưởng của Kinh Thánh nên đã tiến bộ và tốt đẹp hơn.
Nhờ sự dạy dỗ của Kinh Thánh mà người ta thoát khỏi quyền
lực của tối tăm và ma quỷ. Nhiều bộ lạc dã man, nhiều dân tộc đã từ bỏ mê
tín dị đoan, ăn thịt người, thờ cúng điểu, thú, côn trùng, mà trở nên văn minh
tiến bộ. Nhiều nước đã bãi bỏ chế độ nô lệ, tôn trọng nhân quyền, loại
trừ sự kỳ thị chủng tộc, kỳ thị phái tính, và phân biệt giai cấp xã hội.
Những giá trị về sự thật, công lý, thương xót, bình đẳng, bác ái, dân chủ, và
nhân quyền, đều bắt nguồn từ Kinh Thánh mà ra.
Các ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải thoát các
ngươi được tự do.” (Giăng 8:32)
Nhưng hãy để công lý tuôn tràn như nước trên ngàn đổ xuống,
và hãy để công chính láng lai như dòng suối chảy mãi không ngừng. (A-mốt 5:24)
Hỡi con người, Ngài đã bảo ngươi điều gì là tốt, và điều
CHÚA đòi hỏi ngươi chẳng phải là thực thi công lý, yêu mến thương xót, và bước
đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời của ngươi sao? (Mi-ca 6:8)
4) Khảo cổ học đã xác
nhận tất cả những chi tiết được ghi chép trong Kinh Thánh, dù ở hàng ngàn năm
về trước, đều là xác thật.
Những khám phá mới của ngành khảo cổ học càng ngày càng
chứng minh những gì viết trong Kinh Thánh là hoàn toàn chính xác và đáng tin
cậy. Sự huỷ diệt Sô-đôm và Gô-mô-ra, sự sụp đổ của thành Giê-ri-cô, thành
Ni-ni-ve, và vô số những khám phá khác đều được khoa khảo cổ học nhìn nhận Kinh
Thánh đã nói đúng hoàn toàn.
5) Kinh nghiệm bản thân
về đời sống đổi mới và tràn đầy phước hạnh của những người tin và làm theo lời
Kinh Thánh là bằng chứng cụ thể và hùng hồn nhất làm cho Kinh Thánh có giá trị.
Những người thật lòng tin vào lời Kinh Thánh và làm theo lời
Kinh Thánh đã kinh nghiệm được đời sống biến đổi. Từ những kẻ tội lỗi,
dâm loạn, sát nhân, trộm cướp, gian xảo, vị kỷ, nghiện ngập, tàn ác họ đã nhờ
thần quyền của Kinh Thánh được biến thành những con người hiền lương, đạo đức,
ngay lành, nhân ái, rộng lượng, hy sinh, v.v. Kinh Thánh quả là một sách
thánh thiêng nhiệm mầu, một kho tàng quý báu cho nhân loại.
10. Người ta phải mất bao lâu mới
viết xong Kinh Thánh?
Toàn bộ Kinh Thánh đượchoàn tất khoảng 1.400 năm (1.300 T.C.
– 100 S.C.). Phần đầu của Cựu Ước (sách Sáng Thế) lúc đầu có lẽ đã được
lưu truyền bằng lời truyền khẩu, sau đó đã được ghi lại trên những tấm đất sét
nung, hoặc chạm trên bảng đá, cho đến thời Mô-se, khoảng 1.275 trước khi Chúa
giáng sinh, những câu chuyện ấy mới được Đức Thánh Linh hướng dẫn để ghi xuống
trên các bản đất sét nung, hoặc giấy cỏ chỉ, hoặc các cuộn da, rồi sau đó những
phần khác của Kinh Thánh mới lần lượt được chép ra. Cuối cùng, các sách
rời rạc đó được Đức Thánh Linh hướng dẫn để thu thập thành một bộ sách thánh;
đó là bộ Kinh Thánh.
Điều tuyệt diệu là tuy Kinh Thánh phải mất khoảng 1.400 năm
mới viết xong, do nhiều người, thuộc mọi thành phần, sống ở nhiều nơi, nhiều
lúc khác nhau, nhưng nhờ Đức Thánh Linh soi dẫn, nên tất cả đều viết về một chủ
đề (Chương Trình Cứu Rỗi của Đức Chúa Trời Cho Nhân Loại), và
những điều họ viết đều ăn khớp và hợp nhất với nhau.
11. Tại sao có những bản Kinh
Thánh có nhiều chỗ không giống y
hệt
nhau; vì nghe rằng không ai được sửa đổi hay thêm bớt gì vào
Kinh
Thánh, như vậy bản nào đúng bản nào sai?
Khi Kinh Thánh được viết ra, Kinh Thánh được viết bằng ba
thứ tiếng. Cựu Ước được viết bằng tiếng Hê-bơ-rơ (Hebrew)
và tiếng A-ram (Aramaic) (tuyrất ít), còn Tân Ước được viết bằng
tiếng Hy-lạp (Greek). Sau đó Kinh Thánh được dịch ra hàng ngàn ngôn
ngữ để các dân tộc và các bộ lạc có thể hiểu được. Mỗi ngôn ngữ, theo
thời gian lại có những chữ mới thêm vào và một số chữ khác lại dần dần thay đổi
ý nghĩa. Vì thế Kinh Thánh phải cần được thường xuyên dịch lại để những
người sống trong một thế hệ nào đó có thể hiểu một cách chính xác hơn.
Kinh Thánh trong các ngôn ngữ gốc không bao giờ thay đổi, nhưng các bản dịch
thì có thể được thay đổi. Vì thế, xin bạn hãy chọn bản dịch nào bạn thích
nhất mà dùng, và cũng nên có cái nhìn phóng khoáng về những bản dịch kia.
Nói tóm lại, tất cả những bản Kinh Thánh mà chúng ta có, nếu trong nguyên ngữ
đều là bản sao, còn nếu trong ngôn ngữ chúng ta có thể đọc và hiểu được đều là
bản dịch.
12. Kinh Thánh là một bộ sách rất
dày, cả ngàn trang, gồm cả trăm
ngàn chữ,
làm sao ai có thể nhớ hết. Có cách gì tóm tắt lại vài
chữ ngắn
gọn để có thể dễ nhớ và làm theo không?
Toàn bộ Kinh Thánh có thể tóm tắt lại trong bốn chữ nầy: “Thờ Chúa, Yêu người.”
Đó là tinh túy và cốt lõi của toàn bộ Kinh Thánh.
13. Nghe nói trong Kinh Thánh có
Mười Điều Răn rất nổi tiếng xưa
nay, Mười
Điều Răn đó nói về gì?
Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời cho chúng ta là nền tảng
luân lý và đạo đức của thế giới loài người xưa nay. Mười Điều Răn đó được
ghi trong sách Xuất Hành 20:3-17 như sau. Ước mong bạn học thuộc lòng
Mười Điều Răn nầy.
1) Trước mặt Ta, ngươi chớ có các thần khác.
2) Ngươi chớ làm cho mình hình tượng nào để thờ, bất kể là hình
tượng của vật nào trên trời, hay vật nào dưới đất, hay vật nào trong nước dưới
mặt đất. Ngươi không được sấp mình xuống trước mặt chúng hay thờ lạy
chúng; vì Ta, Chúa, Đức Chúa Trời của ngươi, là một Thần ghen tương. Do
tội ghét bỏ Ta của ông bà cha mẹ, Ta sẽ phạt con cháu đến ba, bốn đời, nhưng Ta
sẽ bày tỏ ơn thương xót đến ngàn đời cho những người yêu kính Ta và vâng giữ
các điều răn Ta.
3) Ngươi chớ dùng danh Chúa, Đức Chúa Trời của ngươi, một cách
bất kính; vì Chúa sẽ không cho là vô tội kẻ nào dùng danh Ngài một cách bất
kính.
4) Hãy nhớ ngày sa-bát mà biệt riêng ngày ấy ra thánh.
Ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc mình trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy
là ngày sa-bát để tôn kính Chúa, Đức Chúa Trời của ngươi; trong ngày ấy, ngươi,
con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, súc vật, hay ngoại kiều cư ngụ trong thành
ngươi, đều không được làm công việc gì hết; vì trong sáu ngày, Chúa đã dựng nên
trời, đất, biển, và mọi vật trong chúng, nhưng đến ngày thứ bảy thì Ngài
nghỉ. Vậy Chúa đã ban phước cho ngày sa-bát và biệt riêng ngày ấy ra
thánh.
5) Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, để ngươi được sống lâu trên đất
mà Chúa, Đức Chúa Trời của ngươi, ban cho ngươi.
6) Ngươi chớ phạm tội sát nhân.
7) Ngươi chớ ngoại tình.
8) Ngươi chớ trộm cắp.
9) Ngươi chớ làm chứng dối để hại người lân cận ngươi.
10) Ngươi chớ tham nhà của người lân cận ngươi; ngươi chớ tham
muốn vợ người lân cận ngươi, hoặc tôi trai, tớ gái, bò, lừa, hay bất cứ vật chi
thuộc về người lân cận ngươi.”
14. Ngoài Mười Điều Răn đó ra
Kinh Thánh còn có điều răn quan
trọng
nào nữa không?
Có. Còn một điều răn rất quan trọng nữa mà Đức Chúa
Giê-su đã ban cho những người tin thờ Ngài.
15. Điều răn đó nói gì?
Điều răn ấy Chúa dạy rằng chúng ta phải yêu thương nhau.
Ta ban cho các con một điều răn mới, đó là các con phải yêu
thương nhau, như Ta đã yêu thương các con thể nào, các con cũng hãy yêu thương
nhau thể ấy. Nếu các con yêu thương nhau, thì bởi đó thiên hạ sẽ nhận
biết các con là môn đồ Ta.
(Giăng 13:34-35).
16. Cụ thể hơn, Kinh Thánh có thể
giúp ích gì cho tôi?
Bạn có thể nhờ Kinh Thánh mà tin có Đức Chúa Trời và thờ
phượng Ngài. Kinh Thánh giúp bạn biết phải tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-su
để được cứu rỗi linh hồn hầu sau khi qua đời bạn được về thiên đàng. Kinh
Thánh dạy bạn biết phải vâng phục Đức Thánh Linh và lời Chúa để bạn sẽ được
phước trong đời nầy và bảo đảm phước hạnh vĩnh cửu sau khi qua đời. Sự
ích lợi của Kinh Thánh còn rất nhiều, không thể kể ra hết được.
...và từ khi con còn thơ ấu, con đã biết Kinh Thánh có thể
khiến con khôn ngoan để được cứu bởi đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-su.
(2 Ti-mô-thê 3:15).
Quyển sách luật pháp nầy chớ rời xa miệng ngươi. Hãy suy gẫm
nó ngày và đêm, để cẩn thận làm theo những gì đã chép trong đó, vì như thế
ngươi sẽ làm cho đường lối của ngươi được thịnh đạt, và ngươi sẽ thành
công. (Giô-suê
1:8).
Đại cộng đồng đức tin đó được gọi là Hội Thánh phổ thông. Nếu một
số người có cùng một niềm tin, ở cùng một địa phương, kết hiệp lại với nhau để
thờ phượng Chúa và làm theo lời dạy của Ngài, thì tập thể đó được gọi là hội thánh địa phương. Hội
Thánh là thân thể thiêng liêng mầu nhiệm của Chúa Cứu Thế.
Bài Bảy
Hội Thánh
1. Hội Thánh là gì?
Hội Thánh là tập thể của những người thờ phượng Đức Chúa
Trời, tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-su, và được liên kết với nhau trong Đức Thánh
Linh khắp nơi trên thế giới. Đại cộng đồng đức tin đó được gọi là Hội Thánh phổ thông.
Nếu một số người có cùng một niềm tin, ở cùng một địa phương, kết hiệp lại với
nhau để thờ phượng Chúa và làm theo lời dạy của Ngài, thì tập thể đó được gọi
là hội thánh địa phương.
Hội Thánh là thân thể thiêng liêng mầu nhiệm của Chúa Cứu Thế.
Hễ ai tin thờ Chúa thì được kể vào cộng đồng hội thánh bất
kể thuộc ngôn ngữ, dân tộc, văn hóa, hay phái tính nào.
2. Tại sao gọi là “Hội Thánh,”
nghe như có vẻ đại ngôn hoặc cường
điệu quá
chăng?
Thưa không phải vậy đâu. Sở dĩ chúng ta dám nhận mình
thuộc về “Hội Thánh” không phải vì chúng ta thánh thiện gì hơn ai, nhưng vì kể
từ khi tin Chúa, tội lỗi chúng ta đã được Đức Chúa Trời tha thứ và xóa bỏ, tâm
hồn chúng ta đã trở nên trong trắng và thánh sạch trước mặt Ngài. Cho nên
Kinh Thánh gọi chúng ta là “những thánh đồ” (Rô-ma 1:7) bởi địa vị nên thánh mà
Chúa đã ban cho chúng ta. Chúng ta là những người đã được Chúa gọi ra
khỏi thế gian để thuộc riêng về Ngài, vì thế chúng ta được thuộc về “Hội Thánh”
của Ngài, một danh hiệu Ngài ban, chứ chẳng phải chúng ta tự mình xưng nhận như
thế.
3. Hội Thánh bắt đầu khi nào?
Hội Thánh chính thức được thành lập vào ngày Lễ Ngũ Tuần vào
năm thứ nhất của công nguyên, khi Đức Thánh Linh giáng lâm (Công Vụ 2), tức sau
khi Đức Chúa Giê-su thăng thiên được mười ngày, khoảng 2.000 năm trước đây.
4. Mục đích của Hội Thánh là gì?
Hội Thánh được thành lập để các con cái Chúa có môi trường
lành mạnh
1)
Thờ phượng Ba Ngôi Đức Chúa Trời.
2)
Học Kinh Thánh để có tri thức thuộc linh hầu đức tin được
vững mạnh và đời sống được biến đổi trở nên
giống như
Đức Chúa Giê-su.
3) Khích
lệ nhau trong nổ lực phục vụ Chúa và tha nhân để biến
thế giới nầy trở nên tốt đẹp hơn như lời Chúa dạy.
4) Rao giảng ơn
cứu rỗi của Chúa cho mọi người, như lệnh Chúa
truyền (Ma-thi-ơ 28:19-20; Mác 16:15).
5. Hội Thánh thờ phượng Chúa như
thế nào?
Tùy theo mỗi văn hóa mà sự thờ phượng Chúa mỗi khác.
Tuy nhiên, mục đích chính khi các tôi con Chúa nhóm lại để thờ phượng Ngài là
tôn vinh, ca ngợi, dâng mọi vinh hiển cho Ngài, lắng nghe lời Ngài trong Kinh
Thánh, dâng lời cầu nguyện lên Chúa, dự thánh lễ để hưởng mầu nhiệm của đức
tin, và bày tỏ lòng biết ơn bằng lễ vật đem đến dâng cho Ngài.
6. Hội thánh phải thờ phượng Chúa
tại đâu?
Nếu nơi nào có thánh đường hay nguyện đường để các tôi con
Chúa nhóm nhau lại thờ phượng Chúa thì tốt; còn không, các tôi con Chúa có thể
nhóm lại ở bất cứ nơi nào để thờ phượng Ngài. Vì thế nhà riêng, ngoài
rừng, ngoài ruộng, bờ biển, trong hang động, khách sạn, hay bất cứ nơi nào cũng
có thể làm nơi nhóm lại thờ phượng Chúa.
Vì nơi nào có hai ba người nhân danh Ta họp lại với nhau, Ta
sẽ ở giữa họ. (Ma-thi-ơ 18:20).
7. Sự thờ phượng chung như thế có cần
thiết không?
Rất cần thiết. Lời Chúa đã ví mỗi người trong chúng ta
như một bộ phận trong thân thể (1 Cô-rinh-tô 12:12-31). Nếu một bộ phận
bị tách rời khỏi thân thể, bộ phận ấy không thể sống được. Thân thể tiêu
biểu cho hội thánh, còn mỗi bộ phận là mỗi chúng ta. Vì thế, chúng ta
phải chọn một hội thánh địa phương hoặc chọn một nhóm người cùng đức tin, để
thờ phượng Chúa, học hỏi Lời Ngài, và làm những công việc Ngài muốn chúng ta
làm, hầu đức tin chúng ta được sống mạnh.
Chúng ta đừng bỏ sự nhóm lại với nhau như một số người quen
làm, nhưng chúng ta hãy khuyến khích nhau, và khi anh chị em thấy ngày ấy đến
gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy.
(Hê-bơ-rơ 10:25).
8. Làm sao hội thánh có tiền để
chi phí và điều hành mọi công việc?
Do lòng yêu mến Chúa, các tôi con Chúa trong hội thánh mỗi
khi đi thờ phượng Chúa thường mang theo một số tiền, trích ra từ lợi tức mình
kiếm được trong tuần, để dâng lên Chúa. Vì Chúa dạy, “Không ai đến ra mắt Ta mà đi tay không.” (Xuất Hành 23:15b). Những món tiền dâng ấy được gom
lại với nhau để trang trải mọi chi phí cho việc điều hành và phát triển hội
thánh. Hội thánh cần tiền để xây dựng và bảo trì cơ sở nhà thờ, nuôi
người dành trọn thì giờ hầu việc Chúa, phụ cấp cho các nhân viên phục vụ cho
hội thánh, thực hiện những chương trình và công tác của hội thánh như thờ
phượng, Cơ-đốc Giáo Dục, đào tạo nhân sự, phục vụ xã hội, và đặc biệt là công
tác truyền bá Đạo Chúa.
9. Có mức quy định nào cho sự
dâng hiến không?
Thời Cựu Ước, Chúa truyền cho dân Do-thái phải nộp thuế một
phần mười để dùng vào việc thờ phượng Ngài. Đến thời Tân Ước, Kinh Thánh
không đề nghị rõ ràng một con số nào cả. Vì thế, ngày nay nhiều tôi con
Chúa dựa theo con số của Cựu Ước mà dâng hiến. Trước khi Hội Thánh thành
hình, Đức Chúa Giê-su cũng tán đồng việc đó (Ma-thi-ơ 23:23). Tuy nhiên,
từ khi Hội Thánh được thành lập, Kinh Thánh nói rất rõ: sự dâng hiến cho Chúa
là do lòng yêu mến Chúa, theo lượng đức tin, và hảo tâm chứ không do bị ràng
buộc bởi luật pháp Mô-se, như thời Cựu Ước. Vì thế khi dâng hiến lên Chúa
mà lòng bạn vui và cảm thấy sung sướng vì được vinh dự góp phần vào công việc
nhà Chúa, thì sự dâng hiến như thế mới có phước. Chúng ta dâng hiến lên
Chúa không phải vì bị trói buộc nhưng vì lòng biết ơn và do tình yêu thôi thúc.
Hãy đem tất cả phần mười vào kho, để có lương thực trong nhà
Ta. Từ nay, các ngươi khá lấy điều nầy mà thử Ta, Chúa các đạo quân phán
vậy, xem Ta có mở các cửa sổ trên trời, đổ phước xuống cho các ngươi, đến nỗi
không chỗ chứa chăng. (Ma-la-chi
3:10).
Xin anh chị em nhớ rằng ai gieo ít sẽ gặt ít, ai gieo nhiều
sẽ gặt nhiều. Mỗi người hãy theo lòng mình đã định mà dâng hiến, không dâng một
cách miễn cưỡng hoặc bị cưỡng ép, vì Đức Chúa Trời yêu người dâng hiến cách vui
lòng. Đức Chúa Trời có khả năng ban cho anh chị em mọi ân phước cách dư dật, để
anh chị em luôn được đầy đủ mọi mặt, hầu có thể chia sẻ một cách rời rộng trong
mọi việc phúc thiện, như có chép rằng,
“Người nào rải của mình ra giúp người nghèo khổ,
Công đức của người ấy sẽ trường tồn mãi mãi.”
(2 Cô-rinh-tô 9:6-9).
Đức Chúa Giê-su phán, “Vì của cải các ngươi ở đâu, lòng các
ngươi cũng ở đó.” (Ma-thi-ơ
6:21).
Của cải chúng ta dâng rời rộng cho công việc Chúa thì lòng
chúng ta cũng hướng về công việc Chúa. Người mình nói, “Đồng tiền dính
liền khúc ruột,” cho nên sự dâng hiến của chúng ta quả có phản ánh lòng yêu mến
Chúa của chúng ta vậy.
10. Hội Thánh do ai lãnh đạo?
Tùy theo mỗi giáo phái mà thành phần được chọn lãnh đạo Hội
Thánh mỗi khác. Nói chung, thì từ trong vòng các con cái Chúa, một số
người được Chúa kêu gọi dâng cuộc đời phụng sự Chúa. Những người ấy
thường phải trải qua một thời kỳ thử thách, huấn luyện, được phong thánh chức,
rồi được sai phái, bổ nhiệm, hay được mời đến lãnh đạo một cộng đồng tín hữu
tại một địa phương. Người lãnh đạo ấy được gọi là mục sư, mục sư nhiệm
chức, truyền đạo, truyền đạo tình nguyện, v.v.. Tại mỗi hội thánh địa
phương các tín hữu hằng năm chọn lựa giữa vòng anh chị em mình những người có
lòng hầu việc Chúa và có ơn lãnh đạo để đứng ra hiệp tác với mục sư mà lo điều
hành và phát triển Hội Thánh. Những vị ấy, tuỳ theo mỗi giáo phái, mà
được gọi là Hội Đồng Lãnh Đạo, Ban Chấp Hành, hay Ban Chấp Sự, v.v. . Tùy
theo nhu cầu và khả năng của mỗi hội thánh, Hội Đồng Lãnh Đạo cũng có thể mời
thêm các mục sư, truyền đạo, hoặc thuê thêm các nhân viên, về phụ lo công việc
Hội Thánh, để Hội Thánh một ngày một phát triển.
11. Tại sao có hội thánh do nam mục
sư lãnh đạo, nhưng cũng có hội
thánh do
nữ mục sư lãnh đạo?
Tuỳ theo quan điểm thần học của từng giáo phái mà phụ nữ
được giữ những vai trò lãnh đạo thuộc linh hay không. Giáo phái nào cho
phép phụ nữ lãnh đạo hội thánh, họ đã có lý do của họ dựa trên Kinh Thánh và
thần học. Giáo phái nào không cho phép phụ nữ lãnh đạo thuộc linh, họ
cũng có lý do của họ dựa trên Kinh Thánh và thần học. Bạn cảm thấy thích
hợp với giáo phái nào, bạn nên gắn bó với giáo phái ấy để hầu việc Chúa, và
cũng đừng nên lên án giáo phái khác vì họ không làm giống mình, nếu bạn chưa
nghiên cứu và học hỏi kỹ lưỡng về giáo phái đó. Hơn nữa, vẻ đẹp của Đạo
Chúa là tính sáng tạo, đa dạng, đa sắc thái, chứ không phải một khuôn giống hệt
nhau. Một vườn hoa đẹp khi có nhiều thứ hoa qúy, muôn màu vạn sắc, thay
vì chỉ có mỗi một thứ hoa. Hội thánh chung của Chúa cũng như vậy.
12. Trong Hội Thánh có những
thánh lễ quan trọng nào?
Hội Thánh có rất nhiều thánh lễ: Lễ Giáng sinh, Lễ Thương
Khó, Lễ Phục Sinh, Lễ Ngũ Tuần, hôn lễ, tang lễ, và nhiều lễ khác, nhưng quan
trọng hơn cả là Lễ Báp-têm và Lễ Tiệc Thánh.
13. Tại sao hai lễ ấy là quan trọng
hơn các lễ kia?
Hai lễ ấy quan trọng hơn bởi vì chính Đức Chúa Giê-su đã
thiết lập và dạy phải thi hành. Ngoài ra, hai thánh lễ ấy chứa đựng lẽ
mầu nhiệm của đức tin.
Tất cả uy quyền trên trời và dưới đất đã giao cho Ta.
Vậy hãy đi làm cho mọi dân tộc trở thành môn đồ Ta; hãy nhân danh Đức Chúa Cha,
Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh mà làm báp-têm cho họ, và dạy họ giữ tất cả
những điều Ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, Ta hằng ở cùng các ngươi
luôn cho đến tận thế.
(Ma-thi-ơ 28:18-20).
Rồi Ngài lấy một ổ bánh, tạ ơn, bẻ ra, đưa cho họ và nói, “Đây
là thân thể Ta, vì các ngươi mà phó cho. Hãy làm điều nầy để nhớ đến Ta.”(Lu-ca 22:19).
Sau bữa ăn tối, Ngài lấy chén và cũng làm như vậy, rồi phán
rằng, “Chén nầy là giao ước mới trong huyết Ta. Hãy làm điều nầy, hãy thường
uống chén nầy, để nhớ đến Ta.”
(1 Côr 11:25).
14. Lẽ mầu nhiệm của đức tin của
hai thánh lễ ấy là gì?
Lễ báp-têm đánh dấu ngày chúng ta lấy đức tin công khai xác
nhận mình đồng chết và đồng sống lại với Chúa, bắt đầu một cuộc sống mới với
Ngài. Lễ báp-têm cũng là lúc chúng ta phó thác chính mình hoặc con thơ
mình vào trong ân sủng của Chúa (trong trường hợp bạn công nhận phép báp-têm cho trẻ thơ).
Khi dự Tiệc Thánh, một mặt chúng ta tưởng nhớ đến sự hy sinh
của Chúa, Đấng đã vì chúng ta mà chịu chết; một mặt khác chúng ta lấy đức tin
hưởng nhận mầu nhiệm của sự hiệp nhất, sự thánh hóa, sự chữa lành, và sự sống
đời đời trong thân thể và trong dòng huyết của Đức Chúa Giê-su.
15. Ai có thể được hưởng nhận hai
thánh lễ ấy?
Tùy theo giáo luật của mỗi giáo phái. Một số giáo phái
đòi hỏi chỉ những người lớn đã được báp-têm rồi mới được phép dự Tiệc
Thánh. Một số giáo phái không cho phép ai không phải là hội viên của giáo
phái họ được dự Tiệc Thánh với họ cả. Một số giáo phái khác lại tin rằng
ân sủng của Chúa ban cho cách vô lượng vô biên, nên họ làm báp-têm cho trẻ sơ
sinh và ban Tiệc Thánh cho mọi người có lòng tin, không nhất thiết là đã thọ lễ
báp-têm hay chưa, miễn là đã tin Chúa thì được phép dự. Thậm chí có giáo
phái tin rằng một người lâu nay chưa hề tin Chúa, nhưng trước bàn Tiệc Thánh,
người ấy muốn được dự, thì người ấy đang có lòng tin vào mầu nhiệm của thân và
huyết Chúa, nên họ cũng cho phép người ấy được dự; vì họ cho rằng khi người ấy
dự Tiệc Thánh là lúc người ấy bày tỏ lòng tin nơi Chúa vậy.
Dù chúng ta không biết thực hư về đức tin của mỗi người ra
sao, nhưng thiết tưởng, chúng ta nên kính trọng sự khác biệt về phương diện tín
lý của những giáo phái khác với giáo phái mình, mà không nên lên án hay chỉ
trích chi cho buồn lòng nhau. Chúng ta có thể tạm ví như gia phong mỗi
nhà mỗi khác vậy. Không vì cách sống trong gia đình người ta không giống
gia đình mình mà chúng ta lên tiếng chê bai chỉ trích người ta. Xin hãy
dành sự xét đoán về tín lý ấy cho Chúa. Mong chúng ta hãy nhớ lời Chúa
dạy về sự xét đoán (Ma-thi-ơ 7:1-5). Chúng ta thấy hợp với giáo phái nào
thì hãy gắn bó với giáo phái ấy mà hầu việc Chúa. Thiển nghĩ như thế là
tốt hơn cả.
16. Tại sao có nơi khi làm lễ
báp-têm người thọ lễ phải được trầm
mình dưới
nước, còn có nơi chỉ dùng một ít nước mà thôi?
Đúng ra, khi làm lễ báp-têm, người thọ lễ nên được trầm mình
hẳn dưới nước mới tốt; vì đó là một biểu tượng rất mạnh mẽ. Trầm mình hẳn
dưới nước làm hình bóng về sự chết hoàn toàn cuộc đời cũ, khi bước lên khỏi
nước làm hình bóng về sự bắt đầu một đời mới trong Chúa. Tuy nhiên, dù
trầm mình hẳn, hay được rảy nước, hoặc được tưới một ít nước, tất cả đều cũng
chỉ là biểu tượng. Mà biểu tượng thì nước nhiều hay ít không là vấn đề
quan trọng. Điều quan trọng là được báp-têm bằng Đức Thánh Linh; tức được
Đức Thánh Linh thanh tẩy tội lỗi, ban cho sự sống mới, và kết hiệp vào Hội
Thánh. Điều nầy chỉ có thể xảy ra khi chúng ta lấy lòng thành mà tin cho
chính mình và trao thác con thơ mình vào ân sủng của Ngài (trong
trường hợp bạn tin vào phép báp-têm cho trẻ thơ).
Lý tưởng nhất là làm phép báp-têm nơi một dòng sông hay dòng
suối, tức nơi có nước sạch luôn luôn chảy. Tuy nhiên, không phải nơi nào
cũng có được một môi trường lý tưởng như thế. Vì vấn đề vệ sinh chung,
nhiều giáo phái cũng không muốn dùng một hồ nước nhỏ làm báp-têm cho nhiều
người, nên chỉ dùng một ít nước tượng trưng. Điều quan trọng khi làm
báp-têm là phải dùng nước; vì nước là dung chất tiêu biểu phổ thông cho sự tẩy
rửa.
17. Tại sao một số giáo phái làm
báp-têm cho trẻ thơ; con trẻ đâu
biết gì
mà làm báp-têm cho chúng?
Thật ra người lớn chúng ta cũng chưa hiểu rõ những mầu nhiệm
của đức tin trong Lễ Báp-têm hay Tiệc Thánh huống chi là trẻ thơ. Có gì
bảo đảm rằng những người lớn thọ lễ báp-têm sẽ không bỏ Chúa hoặc không sống
cuộc đời làm xấu hổ danh Chúa? Tuy nhiên, một số người tin vào ân sủng
của Chúa dồi dào và vô hạn cho mọi người, nên họ quyết định cho con thơ của họ
được làm báp-têm.
Theo họ, đây là truyền thống đã tiếp tục từ thời Hội Thánh
đầu tiên, khi các đầy tớ Chúa làm báp-têm cho cả gia đình những người trở lại
tin thờ Chúa (Công Vụ 10:47-48; 16:15; 16:33). Họ tin rằng trong các gia
đình đó thế nào cũng có các trẻ thơ.
Những người làm như thế tin rằng khi con mình còn thơ ấu, họ
có trách nhiệm về linh hồn nó, nên họ muốn nó thuộc vào giao ước mới của Chúa,
bằng cách dùng lễ báp-têm để con mình được đưa vào trong giao ước mới ấy.
Sau đó họ tiếp tục dạy dỗ con họ trong đường tin kính Chúa, để khi nó khôn lớn,
đủ tuổi quyết định, nó sẽ học giáo lý và sẽ xác nhận đức tin trong Lễ Xác Nhận
Niềm Tin.
Trong thời Cựu Ước, Đức Chúa Trời truyền lịnh cho dân
Do-thái phải làm phép cắt bì cho nam trẻ thơ mới tám ngày. Trẻ thơ mới
tám ngày nào hiểu biết gì, thế nhưng Chúa bảo phải làm, nếu cha mẹ muốn con
mình được biệt riêng thuộc về cộng đồng con dân Chúa (Sáng Thế 17:9-14).
Phép báp-têm cho trẻ thơ ngày nay, đối với một số giáo phái, cũng có ý nghĩa
tương tự như phép cắt bì cho trẻ thơ trong thời Cựu Ước.
Tóm lại, bạn có quyền không cho con thơ của bạn thọ lễ
báp-têm, nhưng mong bạn đừng bài bác đức tin của những người tin vào ân sủng
của lễ báp-têm cũng bao gồm con thơ của họ.
Mong rằng trong chúng ta ai đã đạt đến mức nào thì hãy từ
mức đó mà tiếp tục tiến lên. (Phi-líp
3:16).
18. Tại sao Tin Lành có quá nhiều
giáo phái, trong khi Công Giáo
chỉ có một
giáo hội thôi?
Nếu bạn có dịp tìm hiểu kỹ, bạn sẽ thấy Công Giáo cũng có
một vài giáo phái nhỏ nữa, nhưng vì các giáo phái kia quá nhỏ, ít được ai nhắc
đến, nên chúng ta cứ tưởng Công Giáo chỉ có một giáo phái.
Sở dĩ Tin Lành có nhiều giáo phái, theo thiển nghĩ, là do
hai yếu tố chính: lịch sử và khuynh hướng tôn trọng tự do. Khi cuộc cải
cách giáo hội xảy ra vào thế kỷ thứ 16, do linh mục Công Giáo Martin Luther,
người Đức, khởi xướng tại Đức Quốc, nhiều nơi trong thế giới Cơ-đốc Giáo lúc
bấy giờ hưởng ứng. Do vì phương tiện truyền thông không được như bây giờ,
nên mạnh ai nấy làm, thành ra, đã đem đến hậu quả có nhiều giáo phái như hiện
nay.
Ngoài ra, những người lãnh đạo Tin Lành có khuynh hướng tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng của mỗi người; nên ai muốn tin thế nào và thờ
phượng Chúa thế nào thì để tuỳ ý người ấy. Người Tin Lành chúng ta giảng
đạo, giải nghĩa Kinh Thánh, nhưng không thích dùng giáo luật để bắt buộc người
khác phải tin giống như mình. Hậu quả là có nhiều giáo phái. Nhưng
nhiều giáo phái cũng tốt chứ không sao; giống như một vườn hoa có nhiều thứ
hoa, theo thiển nghĩ, trông đẹp mắt hơn là chỉ có một loại hoa. Hoặc như
cha mẹ có nhiều con, mỗi người con mỗi tánh, khi các con khôn lớn và lập gia
đình; chúng có gia đình riêng, có tự do riêng, và nề nếp riêng của gia đình
chúng. Điều đó cũng tốt và tự nhiên chứ không có gì là bất thường.
19. Nếu tôi ở trong một giáo phái
mà tôi không đồng ý với tín lý của
giáo
phái ấy thì tôi phải làm sao?
Việc đầu tiên là bạn nên gặp mục sư của bạn để xin giải
thích những điều thắc mắc. Ước mong bạn thông cảm rằng, “Nhập gia thì phảitùy tục.” Mỗi giáo phái có niềm
tin và truyền thống riêng của họ. Bạn chọn giáo phái nào thì nên thuận
phục theo giáo phái ấy. Nếu bạn muốn thay đổi điều gì về tín lý, bạn phải
theo giáo luật và hệ thống của giáo phái đó mà đề nghị sửa đổi qua các quyết
nghị của đại hội; còn không thì bạn phải chọn một giáo phái nào thích hợp mà
sinh hoạt thuộc linh. Nếu tất cả các giáo phái hiện có trên thế giới mà
bạn vẫn không tìm thấy một giáo phái nào thích hợp với mình thì chỉ còn cách:
bạn phải tự mình lập ra một giáo phái mới cho mình mà thôi.
20. Trường Chúa Nhật là trường gì
vậy?
Thưa, Trường Chúa Nhật là chương trình giáo dục của mỗi hội
thánh để dạy cho các tín hữu hiểu biết các lẽ đạo trong Kinh Thánh, hầu đức tin
của họ được vững vàng và sâu nhiệm hơn trong Chúa.
Mỗi hội thánh thường có các lớp Trường Chúa Nhật khác nhau,
tùy theo trình độ đức tin và tuổi tác của các học viên. Các lớp nầy
thường thường là miễn phí và do những người đã tin Chúa lâu năm, có kiến thức
về Lời Chúa, và kinh nghiệm theo Chúa, hướng dẫn để giúp các bạn trong cùng hội
thánh được tăng trưởng trong đức tin. Vì thế, xin bạn cố gắng sắp đặt thì
giờ trong ngày Chúa Nhật để đến học Trường Chúa Nhật, ngoài giờ thờ phượng
Chúa. Làm như thế sẽ rất tốt cho bạn và gia đình bạn, vì nó sẽ mang lại
ích lợi lâu dài cho bạn. Ngoài ra, sự chia sẻ đức tin và đóng góp ý kiến
của bạn sẽ là điều ích lợi cho các bạn khác trong lớp. Cho nên chúng ta
có thể nói Trường Chúa Nhật của hội thánh là trường mà ai cũng có thể làm người
dạy và ai cũng là người học.
21. Trong hội thánh có nhiều ban,
nhiều nhóm nhỏ, tôi biết phải
tham gia
vào ban hay nhóm nào?
Tất cả các ban và nhóm nhỏ trong Hội Thánh là những môi
trường để bạn có cơ hội được gây dựng đức tin và hầu việc Chúa hợp với khả năng
của bạn. Bạn nên hỏi mục sư, Hội Đồng Lãnh Đạo, Ban Chấp Hành, hoặc người
dẫn dắt bạn đến với Chúa mà chọn những ban nào hoặc nhóm nào thích hợp để tham
gia. Các ban và nhóm trong Hội Thánh là môi trường lý tưởng nhất để giúp
bạn được gây dựng đức tin và phát huy ân tứ thuộc linh Chúa ban cho bạn.
Mong bạn hãy chọn ít nhất một ban, một nhóm, hay một giáo vụ nào đó trong Hội
Thánh mà dự phần sinh hoạt. Đừng nên không tham gia vào một ban hay nhóm
nào. Những ban hay nhóm nhỏ trong hội thánh giống như những tổ tế bào,
một cơ quan, một bộ phận của một thân thể sống.
Tham gia vào các ban hay nhóm nhỏ của hội thánh để sinh hoạt
cũng giống như các bắp thịt của thân thể được hoạt động. Bắp thịt càng
hoạt động thì càng khỏe. Chỉ khi nào hoạt động quá độ mới mỏi đi một thời
gian ngắn thôi. Nhưng bắp thịt nào không hoạt động gì chắc chắn sẽ yếu
đi. Tham gia vào các ban hay nhóm nhỏ trong hội thánh để phục vụ chắc
chắn sẽ giúp cho bắp thịt đức tin của bạn mạnh khỏe.
Nếu bạn có ơn tứ đặc biệt, những người lãnh đạo trong hội
thánh có thể nhờ bạn lập ra một ban hay nhóm mới để phục vụ Chúa và tha
nhân.
Kinh Thánh dạy rằng đức tin mà không có hành động thì đức
tin ấy sẽ chết (Gia-cơ 2:26). Người Tin Lành đúng nghĩa là người có niềm
tin nơi Chúa, có trí thức về niềm tin của mình, và hành động theo niềm tin của
mình.
Bạn nên
học thuộc lòng những bài sau đây để khi dự lễ thờ phượng bạn đỡ cảm thầy lúng
túng nếu các bài ấy không được in sẵn, hoặc được chiếu trên màn ảnh.
Các
Bài Học Thuộc Lòng
1. Khi dự các thánh lễ thờ phượng
Chúa, tôi nên thuộc lòng sẵn các
bài nào
để có thể dự phần trong lễ thờ phượng cho tốt đẹp?
Bạn nên học thuộc lòng những bài sau đây để khi dự lễ thờ phượng
bạn đỡ cảm thầy lúng túng nếu các bài ấy không được in sẵn, hoặc được chiếu
trên màn ảnh.
Chúng tôi xin ghi dưới đây hai bản dịch khác nhau, một bản dịch cũ
và một bản dịch mới, để tuỳ hội thánh bạn đang sinh hoạt dùng bài nào mà bạn sẽ
học bài cũ (lời cũ) hay bài mới (lời mới), hầu có thể sử dụng
thích hợp trong khi thờ phượng Chúa.
1) Bài Cầu Nguyện Chung
a. Lời Mới
Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Nguyện danh Cha được tôn thánh.
Nguyện vương quốc Cha mau đến.
Nguyện ý Cha được nên dưới đất như trên trời.
Xin cho chúng con hôm nay lương thực đủ ngày.
Xin tha tội lỗi chúng con, cũng như chúng con
tha thứ cho người có lỗi với chúng con.
Xin đừng để chúng con bị cám dỗ,
nhưng xin cứu chúng con khỏi kẻ ác.
Vì vương quốc, quyền năng, và vinh hiển
đều thuộc về Cha đời đời vô cùng. A-men.
b. Lời Cũ
Lạy Cha chúng tôi ở trên trời;
danh Cha được thánh;
nước Cha được đến;
ý Cha được nên, ở đất như trời.
Xin cho chúng tôi hôm nay đồ ăn đủ ngày.
Xin tha tội lỗi chúng tôi, cũng như chúng tôi tha kẻ
phạm tội nghịch cùng chúng tôi.
Xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ,
song cứu chúng tôi khỏi điều ác.
Vì nước, quyền, vinh hiển,
đều thuộc về Cha đời đời vô cùng. A-men.
2) Bài Tín Điều Các Sứ Đồ
a. Lời Mới
Tôi tin Đức Chúa Trời Toàn Năng là Cha, là Đấng dựng nên trời đất.
Tôi tin Chúa Cứu Thế Giê-su là Con Một của Đức Chúa Trời và Chúa
chúng ta. Ngài xuống thế làm người bởi Đức Thánh Linh, sinh bởi trinh nữ
Ma-ry, chịu thương khó dưới tay Pôn-tơ Phi-lát, chịu đóng đinh trên thập tự
giá, chịu chết và chôn. Ngài xuống âm phủ, đến ngày thứ ba, Ngài từ cõi
chết sống lại. Ngài thăng thiên, ngồi bên phải Đức Chúa Trời Toàn Năng là
Cha. Từ đó Ngài sẽ trở lại để xét đoán kẻ sống và kẻ chết.
Tôi tin Đức Thánh Linh.
Tôi tin Hội Thánh phổ thông, sự cảm thông của thánh đồ, sự tha
tội, sự sống lại của thân thể, và sự sống đời đời. A-men.
b. Lời Cũ
Tôi tin Đức Chúa Trời toàn năng là Cha, là Đấng dựng nên trời đất.
Tôi tin Jêsus Christ là Con độc sinh của Đức Chúa Trời, và Chúa
chúng ta, Ngài xuống thế làm người bởi Thánh Linh, sinh bởi nữ đồng trinh
Ma-ri, chịu thương khó dưới tay Bôn-xơ Phi-lát, bị đóng đinh trên thập tự giá,
chịu chết và chôn, Ngài xuống âm phủ, đến ngày thứ ba, Ngài từ kẻ chết sống
lại, Ngài thăng thiên, ngồi bên hữu Đức Chúa Trời toàn năng là Cha, từ đó Ngài
sẽ trở lại để xét đoán kẻ sống và kẻ chết.
Tôi Đức Thánh Linh. Tôi tin Hội Thánh phổ thông, sự cảm thông
của thánh đồ, sự sống lại của thân thể, và sự sống đời đời. A-men.
3) Các Đoản Ca Chúc Tụng
(1) Bài “Ha-lê-lu-gia”
a. Lời Mới
Ha-lê-lu-gia! Kính khen Giê-su.
Ha-lê-lu-gia, A-men.
Ha-lê-lu-gia! Kính khen Giê-su.
Dứt dấy chúng con hoài. A-men.
b. Lời Cũ
Ha-lê-lu-gia, kính khen Jêsus.
Ha-lê-lu-gia, A-men.
Ha-lê-lu-gia, kính khen Jêsus.
Dứt dấy chúng tôi hoài. A-men.
(2) Bài “Chúc Tụng Ba
Ngôi”
a. Lời Mới
Ôi, vinh quang thay Cha chí thánh,
Con tôn kính, Linh quang vinh;
Ba Ngôi trọn lành.
Ngài từ muôn muôn xưa vốn trước tiên;
hiện nay, mai sau, mãi mãi nguyên,
cho đến viễn miên. A-men. A-men.
b. Lời Cũ
Ôi, tôn vinh thay Cha chí thánh,
Con minh chánh, Linh quang vinh;
Ba Ngôi trọn lành;
Ngài từ muôn muôn xưa vốn trước tiên;
Hiện nay, mai sau, mãi đứng nguyên;
Vô biến, vô thiên! A-men, A-men.
(3) Bài Chúc Tụng Đấng
Ngự Trên Ngôi
Chúc
cho Đấng ngồi trên ngôi,
Cùng Chiên Con, được ngợi khen,
tôn quý, vinh hiển, và quyền phép,
cho đến đời đời, cho đến đời đời.
A-men, A-men, A-men.
(4) Bài hát “Tôn Vinh”
Bài đoản ca chúc tụng nầy thường hát trong giờ dâng hiến, khi các
tôi con Chúa mang lễ vật tiến đến dâng trước bàn thờ.
a. Lời Mới
Tôn
vinh Thiên Phụ, nguồn ban ơn phước;
Dưới đất chúc tôn, trời cũng hoan ca.
Thành tâm kính dâng lễ vật tri ân.
Kính Cha, cùng Con, với Linh đời đời.
A-men.
b. Lời Cũ
Tôn vinh Chân Thần, Nguồn ơn vô đối;
Dưới đất chúng sinh tụng mỹ khắp nơi;
Trời cao cũng chung khen ngợi Ba Ngôi;
Chúa Cha, cùng Con, với Linh muôn đời.
A-men.
0 nhận xét:
Cảm ơn bạn đã nhận xét. Nguyện Chúa ban phước cho bạn.